''Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội, sự vận dụng của Đảng ta trong đổi mới đất nước
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam
trong sự phát triển của Đông Á và Đông Nam Á, hay nói rộng hơn là vòng cung Châu
Á-Thái Bình Dương, hiện nay đang thu hút được nhiều người trong giới lãnh đạo và
giới kinh doanh trên thế giới.
Vì sao Việt
Nam có sự chú ý đó? chắc chắn là do Việt Nam
đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và ngày càng sâu
sắc về cơ sở hạ tầng và kiến chúc thượng tầng xã hội.
Trong quá trình
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận
dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần
trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế
khác nhau. Tính chất đan xen - quá độ về
kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang
tình phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội. Đây là một kết cấu
kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt
ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng
đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng
đò hỏi của cơ sở hạ tầng.
Đã có rất
nhiều văn kiện trính trị và luận văn khoa học đề cập sâu sắc về công cuộc đổi mới
này. Vì vậy, với tư cách là một sinh viên còn trên giảng đường, em chỉ mong bài
viết này có thể nêu một số vấn đề có tính chất khái quát về công cuộc đổi mới này
và thấy được sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước ở Việt
Nam.
Qua đó em mạnh
dạn nhận đề tài : ''Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội, sự vận dụng của Đảng ta trong đổi mới
đất nước'' .
Do thời gian
sưu tầm tài liệu không nhiều và trình độ nhận thức của em còn hạn chế, bản thân
em lại là người Laos nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót và bất
cập, em rất mong nhận được sự nhận xét của cô giáo, và đóng góp của các bạn để
bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
http://www.tailieuvang.com/2012/12/-moi-quan-he-bien-chung-giua-co-so-ha-tang-va-kien-truc-thuong-tang-cua-xa-hoi-su-van-dung-cua-dang-ta-trong-doi-moi-dat-nuoc.html
NỘI DUNG
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét
cho cùng đều bị các quan hệ của kinh tế qui định. Dù ở xã hội nào, triết học
bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Yếu tố nhận thức đã là sự hiểu biết về thế giới
sung quanh trong đó con người là yếu tố nhận định là sự đánh giá về mặt đạo lý.
Để phù hợp với
trình độ phát triển thấp ở các giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người, triết
học ra đời với tính cách là một khoa học tổng hợp các tri thức của con người về
hiện thực xung quanh và bản thân mình. Sau đó, do sự phát triển của xã hội triết
học đã tách ra khỏi thành khoa học độc lập, triết học với tính cách là khoa học,
nên nó có đối tượng và nhiệm vụ nhận thức riêng của mình, nó là hệ thống những
quan niệm, quan điểm có tính chất chính thể về thế giới, về các quá trình vật
chất, tinh thần và mối quan hệ giữa chúng, về nhận thức và cải biên thế giới.
Do vậy, triết học nghiên cứu về vấn đề: tư duy, xã hội và tự nhiên.Trong đó vấn
đề xã hội là vấn đề mang tính hình thái kinh tế, phản ánh động lực sự phát triển
xã hội thông qua lực lượng sản xuất. Để có cơ chế, cách thức trong sự phát triển
xã hội thì cần phải có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Do vậy cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng là một vấn đề đặc biệt phải quan tâm tới.
Cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội.
Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã
hội thiên tài đã luôn luôn nhìn xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm
nhìn chiến lược hàm chứa phép biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay thế xã
hội bằng xã hội khác tốt hơn. Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu
tranh của các mặt đối lập”.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử
phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp
tư duy: Biện chứng và siêu hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp
này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của
tư duy biện chứng duy vật. Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến
nguồn gốc và động lực của phát triển và khuynh hướng của sự phát triển.
Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự
phát triển của sự vật hiện tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện chứng nói rằng: Sự vật
nào cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn bên trong của nó, bản thân
sự vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội.
Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu
tranh gạt bỏ lẫn nhau. Phép biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt đối
lập. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà lẫn vào nhau, thâm nhập
trong nhau, mặt này chứa đựng mầm mống của mặt kia, chúng tác đọng qua lại lẫn
nhau làm điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển. Sự phát triển từ cái này thành
cái khác cần một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong nền kinh tế sự phân công
lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa người và người tạo ra sự phát triển xã
hội. Lênin nói “Do phân công lao động, ai lo cho người ấy, mọi người vì một người,
một người vì mọi người, và phải tìm thấy mình trong người khác, còn chúa không
thể lo cho người được".
Thời kỳ quá độ hiện nay ở Việt Nam là thời kỳ
ủ mầm của một xã hội phát triển, trong đó phân công lao động đang diễn ra mạnh
mẽ, đó là sự đấu tranh giữa những mặt đối lập của cơ chế cũ, và đang báo hiệu một
tương lai tươi sáng, một nền kinh tế phát triển bền vững.
Đề tài: Lênin nói "Sự phát triển là cuộc
đấu tranh của các mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ"
B. NỘI DUNG CHÍNH:
I. CƠ SỞ HẠ TẦNG.
1.
Khái niệm:
Cơ sở hạ tầng
là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái
kinh tế- xã hội nhất định.
Dựa vào khái
niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã hội của các quan hệ
sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Đúng vậy, mỗi
một hình thái kinh tế - xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện
thực của xã hội, hình thành một cách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã
hội. Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản
xuất vật chất mà nó còn bao gồm cả những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình
tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người.
2. Đặc
điểm, tính chất:
Cơ sở hạ tầng
của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền
kinh tế. Đồng thời trong mỗi cơ sở hạ tầng xã hội còn có những quan hệ sản xuất khác như: dấu vết, tàn
trữ quan hệ sản xuất cũ và mầm mống, tiền đề
của quan hệ sản xuất mới. Cuộc sống của xã hội cụ thể được đặt
trong trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất
thống trị tiêu biểu cho cuộc sống ấy và những quan hệ sản xuất quá độ, hay những
tàn dư cũ, mầm mống mới có vai trò nhất định giữa chúng tuy có khác nhau nhưng
không tách rời nhau vừa đấu tranh với nhau, vừa liên hệ với nhau và hình thành
cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử.
Ví dụ như:
Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị thống trị,
nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính 3 yếu tố đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng
phong kiến.
Đặc trưng
cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định.
Quan hệ sản xuất thống trị qui định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của
toàn bộ đời sồng kinh tế - xã hội. Qui định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ sở
hạ tầng xã hội đương thời mặc dù quan hệ tàn dư, mầm mống có vị trí không đáng
kể trong xã hội có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có
vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xã hội đang
ở giai đoạn mang tính chất quá độ.
Cơ sở hạ tầng
mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn từ những
mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong cơ sở hạ tầng đó và do bản chất
của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập
về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
Như vậy, cơ
sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình sản
xuất vật chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng
sản xuất.
II. KHÁI NIỆM KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG XÃ HỘI:
1.
Khái niệm:
Kiến trúc thượng
tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn
giáo, nghệ thuật... với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội,
các đoàn thể... được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Bởi vậy, kiến
trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh
thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã hội. Nó
đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn
chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.
2. Đặc
điểm, tính chất:
Như vậy, các
bộ phận khác nhau của kiến truc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất định
trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một cơ sở
hạ tầng nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố
của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau với cơ sở hạ tầng của nó. Mà
trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng những tổ
chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh
mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ
chính trị, xã hội ấy. Ngoài ra còn có các yếu tố khác đối lập với những tư tưởng
quan điểm, tổ chức chính trị của các giai cáp bị trị.
Kiến trúc thượng
tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp
của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư tưởng và các
cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Bộ phận có
quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng
giai cáap là nhà nước-Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội
về mặt pháp lý- chính trị.
Thời kỳ quá độ
từ CNTB lên CNCS, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị bóc lột vẫn
còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng tầng của
các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng xã hội
chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính giai
cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG XÃ HỘI.
Theo như
quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết định quan hệ
kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Theo chủ
nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức tư tưởng, chính
trị không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.
Nhưng theo
chủ nghĩa Mác- Lê nin, đã khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có
quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trò
quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ
tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh
ra nó.
Trong sự thống
nhất biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò với kiến trúc
thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển
của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy.
Sự biến đổi
giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng diễn
ra theo hai hướng :
Một là: sự
phát triển hoạc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất.
Hai là: sự
tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay đổi dần dần từng
phần từng bước .
Theo quy luật
này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra
như sau:
Khi cơ sở hạ
tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút, thì nó đòi hỏi
phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình này không chỉ đơn
thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái
kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn
lịch sử này: trong giai đoạn hình thái
kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có sự
dung hoà với nhau hay đạt được giới hạn độ.Tại đây, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần
tự về cơ sở hạ tầng (tăng hoặc giảm dần) nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa
có sự thay đổi.
Cơ sở hạ tầng
ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá trình đào
thải. Mác nói: ”nếu không có phủ định những hình thức tồn tại đã có trước thì
không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì cơ sở hạ tầng cũ
được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực tiến bộ của cái
cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì cơ sở hạ tầng thường
xuyên vận động như vậy nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.
a.Vai trò quết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng xã hội:
Mỗi hình thái
kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng, và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối
quan hệ biện chứng với nhau, và cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng.
Vai trò quyết
định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ: Cơ sở hạ tầng là những quan
hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ khác: Về chính trị, tinh thần, tư tưởng
của xã hội. Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nói cách khác cơ
sở hạ tầng đã sinh ra kiến trúc thượng tầng, và kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng
phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định, khônh có kiến trúc thượng tầng chung cho
mọi xã hội.
Cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung và kết cấu: Tính chất của
kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung của kiến trúc thượng
tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến trúc thượng tầng gọn
nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết
định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ những
biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc
thượng tầng. Mác viết: ”Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả tất cả các kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng”.
Sự biến đổi
của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này thay thế cơ sở hạ
tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu cơ sở hạ tầng cũ
bị xoá bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xoá bỏ và thay
thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp thay đổi,
bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng biến đổi.
Trong xã hội
có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách
mạng xã hội. Những biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho
cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lực lượng sản xuất
trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và sự biến đổi của cơ sở hạ tầng
đến lượt nó lại làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi.
Trong sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải cứ cơ sở hạ tầng mới
xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng mới mất đi ngay mà có bộ phận thay đổi dần
dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những tàn dư của
cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác cũng có những yếu tố, những hình thức không
cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp mới
giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới.
Như vậy, chúng
ta có thể thấy cơ sở hạ tầng có quyết định to lớn đối với kiến trúc thượng tầng,
do đó trong cách mạng xã hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở chủ nghĩa có tác dụng
vô cùng to lớn đối với cuộc sống của xã hội. Chính vì tầm quan trọng của nó mà
khi xem xét, cải tạo một bộ phận nào đó của kiến trúc thượng tầng phải xem xét
cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội. và tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với với
kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình
thái kinh tế- xã hội khác.
Tuy vậy, những
quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội đó là kiến trúc thượng tầng, cũng không
hoàn toàn thụ động, nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng
sinh ra nó.
b. Sự tác động
trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng .
Trong mối
quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ tầng biểu hiện
tập trung đời sống tinh thần xã hội, do đó có vai trò tác động to lớn trở lại với
cơ sở hạ tầng.
Là một bộ phận
cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở
hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với
cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn
luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh
xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.
Kiến trúc thượng
tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng,
kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị
chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu
giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở
kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự
trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của
giai cấp thống trị của xã hội.
Trong các yếu
tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng
và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập
trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ
dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những
hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu
tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù... để tăng cường sức mạnh kinh
tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.
Trong xã hội
có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay
mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước,
giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội.
Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại
tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội
của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và
chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn
kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự
tồn tại của nhà nước khác nhau .
Cùng với nhà
nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng
bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những
chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông
qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được
hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.
Sự tác động
của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy
luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều vớ qui
luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Hiệu quả tác
động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động
chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực
tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những
hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội,
sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.
Nói tóm lại,
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau. Do đó,
khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng
và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối hoá hoặc hạ
thấp yếu tố nào.
Trung thành
với lý luận Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn ở Việt
Nam, Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng nhữnh đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ
quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải
thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính
trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).
IV. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
1. Đặc
điểm hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa không hình thành tự phát trong xã hội
cũ, mà hình thành tự giác sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền và phát triển
hoàn thiện “Suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản ”.
Muốn có cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa. Trước hết giai cấp vô sản
phải dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước cũ, lập nên nhà nước vô sản. Sau
khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản tiến hành quốc hữu hoá, tịch thu,
trưng thu nhà máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản nhằm tạo ra cơ sở kinh tế ban đầu
của chủ nghĩa xã hội.
Việc nhà nước
chuyên chính vô sản phải ra đời trước để tạo điều kiện và làm công cụ, phương
tiện cho quần chúng nhân dân, tiến hành triệt để quá trình ấy hoàn toàn phù hợp
với qui luật khách quan của xã hội. Đó là sự phát triển khách quan trong quá trính
sản xuất vật chất của xã hội, đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng tiến bộ hơn thay thế cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa
lỗi thời phản động. Tuynhiên, nhà nước chuyên chính vô sản có thật sự vững mạnh
hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển của sự phát triển của cơ sở
hạ tầng cộng sản chủ nghĩa.
2. Cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Dưới chủ nghĩa
xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và thống
nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao
hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn
dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản
phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có
sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới: của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành động lực
cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang
tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại
hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư
tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực
tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công
cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách
mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai
con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do đó mà nước
ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là
chủ yếu, đi lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa )
chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ
sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư
bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Các thành phần
đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất , chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa
liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng
thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có
vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và
bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn
lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những
người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ
phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở kinh tế hợp lý.
Trong văn kiện
Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “phải tập chung nguồn
vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công
trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây
dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và
đào tạo, y tế ”. Đồng thời văn kiện Đảng
cũng ghi rõ:”Tư nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc
thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt
lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng
con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh
đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm
thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến
trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ
thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng
sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền
lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát
huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
Trong cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính
trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người,
thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi
thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát
triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn
giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các
bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ
quá độ.
3. Một
số kiến nghị
Trong quá trình
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành
phần kinh tế quốc doanh , tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập
thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu
của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất
phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết
cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt
ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan
là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở
kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi
của cơ sở hạ tầng
Tuy nhiên,
việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều
quan trọng trước hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm sử lý
thiết yếu.
Thứ nhất:
Cần một phương
pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách “cháy đâu chữa đấy” từ
đó tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận chứng có tính khả
thi.
Thứ hai: Cần
theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và sử lý các loại tín hiệu của nền kinh tế
một cách kịp thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến khích các
hoạt động kinh tế lành mạnh . đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh
tế cho phép thâu lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh tế trong phạm
vi cả nước.
Thứ ba: Hoàn
thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài
chính quốc gia từ trung ương đến từng người sản xuất.
KẾT LUẬN
Nắm vững phép
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, vận dụng sáng tạo những chủ chương, đường
lối của Đảng là con đường đầy trông gai nhưng tất yếu sẽ dành thắng lợi trong công
cuộc đôỉ mới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Đảng ta đã sáng
suốt khi đề ra bước đầu thực hiện tốt đường lối đổi mới toàn diện bằng cách kết
hợp chặt chẽ đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Em tin rằng với nhận
thức đúng đắn, sáng tạo của mình cùng với sự đồng lòng nhất trí, ra sức phấn đấu
của toàn đảng , toàn dân, toàn quân, Đảng ta nhất định lãnh đạo công cuộc đổi mới
đi đến thắng lợi hoàn toàn, dưới đà phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện
nay, công cuộc đổi mới Đảng lãnh đạo nhất định sẽ đưa nước ta lên ngang tầm với
các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới.
Là một sinh
viên, em nguyện sẽ góp một phần sức lực
nhỏ bé của mình để công cuộc đổi mới ngày càng đi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội
đảng VII,VIII
2. Tạp chí nghiên
cứu kinh tế
3. Tạp chí nghiên
cứu lý luận
4. Hỏi đáp triết học
5. Giáo trình triết
học Mác- Lênin
6. Đổi mới kinh tế
ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC