• Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012
  • Học thuyết của Mác tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta” cho đề án Kinh tế chính trị



    I. LỜI MỞ ĐẦU
    Để hiểu thêm về tư bản chúng ta tìm hiểu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Lý thuyết này là lý thuyết vận động của tư bản. Tư bản luôn vận động qua 3 giai đoạn khác nhau và ở mỗi một giai đoạn đó thì nó thể hiện các chức năng và hình thức khác nhau. Quá trình vận động của tư bản là quá trình vận động không ngừng diễn ra thường xuyên và lặp đi lặp lại.

    Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có ý nghĩa rất to lớn đối với việc quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Chúng ta đi từ một cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý mới đó là cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta không tránh khỏi những vướng mắc, những sai phạm. Do đó, chúng ta rất cần một cơ sở lý luận để định hướng. Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản rất cần thiết đối  với vấn đề quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Vì vậy chúng ta phải nghiên cứu nó thật kỹ, thật tốt để ứng dụng vào thực trạng của chúng ta.
    “Học thuyết của Máct tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta” cho đề án Kinh tế chính trị.
    Bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm em mong thầy và các bạn đóng góp sửa chữa.
    Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Tiến Long đã giúp đỡ em hoàn thành đề án.

    II. NỘI DUNG CHÍNH
    A/ Cơ sở lý luận
    1. Khái quát chung vể tư bản
    a. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản.
    a.1) Công thức chung của tư bản
    Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
    Tiền tệ được biểu hiện ở hai dạng. Tiền với tư cách là tiền và tiền với tư cách là tư bản, lúc đầu hai dạng này chỉ khác nhau về hình thức lưu thông. Khi tiền biểu hiện dưới dạng tiền tệ thì nó dùng để mua hàng hoá, nó là phương tiện giản đơn của lưu thông hàng hoá và vận động theo công thức hàng - tiền - hàng (H - T - H) đó là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ và tiền tệ lại chuyển thành hàng. Còn tiền ở dưới dạng tư bản thì vận động theo chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là mang lại giá trị sử dụng, còn mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa đó là giá trị tăng thêm. Số tiền thu lại của quá trình lưu thông tiền tệ là lớn hơn số tiền ban đầu, số tiền lớn hơn đó gọi là giá trị thặng dư. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Công thức lưu thông của tiền tệ không còn là : (T - H - H’) mà phải là (T - H - T’), trong đó T’ = T + DT (T: là giá trị thặng dư, C.Mác gọi T - H - T’ là công thức chung của tư bản.

    a.2)Mâu thuẫn chung của tư bản.
    Khi đưa tiền vào lưu thông, số tiền trở về tay người chủ sau khi kết thúc quá trình lưu thông tăng thêm một giá trị là T. Vậy có phải do lưu thông đã làm tăng thêm lượng tiền đó hay không?
    Theo các nhà kinh tế học tư sản thì giá trị tăng thêm đó là do lưu thông tạo ra. Điều này không có căn cứ.
    Thật vậy, nếu hàng hoá trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị còn tổng số giá trị cũng như phần thuộc về mỗi bên trao đổi thì trước sau cũng không thay đổi. Về mặt giá trị sử dụng hai bên cùng có lợi còn về mặt giá trị thì cả hai bên cùng không có lợi. Như vậy trao đổi ngang giá thì không ai thu được lợi từ lưu thông một lượng giá trị lớn đã bỏ ra. Còn trong trường hợp trao đổi không ngang giá, thì người bán có hàng bán với giá cao hơn giá trị. Khi người bán được lời từ việc bán hàng một lượng giá trị thì người mua phải mất đi cũng một lượng giá trị như vậy. Khi người mua phải mất đi cũng một lượng giá trị như vậy. Khi người bán hàng với giá cả thấp hơn giá trị thì người bán phải mất đi một lượng giá trị có ngược lại người mua sẽ được lợi một lượng như vậy. ở đây cũng hình thành nên giá trị thặng dư. Nhưng ta thấy giá trị thặng dư ở đây là do thương nhân mua rẻ bán đắt mà có, điều này có thể giải thích được sự làm giàu của một bộ phận thương nhân chứ không giải thích được sự làm giàu của cả một giai cấp tư bản. Vì tổng giá trị trước và sau trao đổi là không thay đổi. Theo C.Mác giai cấp các nhà tư bản là không làm giàu trên lưng của giai cấp mình.
    Do đó dù khi trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Lưu thông hàng hoá không tạo ra giá trị thặng dư.
    Như vậy, liệu giá trị thặng dư có phát sinh ngoài lưu thông được không? Thực tế người sản xuất hàng hoá không thể biến tiền của mình thành tư bản nếu không tiếp xúc với lưu thông.
    “Vậy tư bản không thể xuất hiện tư lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Từ đó ta có kết luận.
    + Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở để giải thích sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, tức là lấy việc trao đổi ngang giá làm điểm xuất phát.
    + Sự chuyển hoá người có thành nhà tư bản phải tiến hành trong phạm vi lưu thông và đồng thời  lại không phải trong lưu thông.

    a.3) Hàng hoá sức lao động.
    Khi biến đổi giá trị của tiền cần chuyển hoá thành tư bản không thể xảy ra tại chính bản thân của số tiền ấy mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hoá mua vào (T - H). Hàng hoá đó không thể nào là một loại hàng hoá thông thường mà nó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt, mà giá sử dụng của nó có đặc tính sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đặc biệt đó chính là hàng hoá sức lao động mà các nhà tư bản tìm thấy nó trên thị trường.
    * Điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá.
    Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực trong cơ thể con người, thể lực là trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất ra một giá trị sử dụng.
    Sức lao động là rất cần thiết, nó là điều kiện cần thiết để sản xuất. Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định.
    Một là, người lao động tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường như một hàng hoá nếu nó do bản thân con người có sức lao động đưa ra bán.
    Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy người lao động mới bán sức lao động của mình. Vì không còn cách nào khác để sinh sống.
    Sự tồn tại của hai điều kiện trên có tính chất quyết định để sức lao động trở thành hàng hoá và khi sức lao động trở thành hàng hoá nó là điều kiện lịch sử nhất định.
    Một là, người lao động tự do về thân thể. Sức lao động chỉ  xuất hiện trên thị trường như một hàng hoá nếu nó do bản thân con người có sức lao động đưa ra bán.
    Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy người lao động mới bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
    Sự tồn tại của hai điều kiện trên có tính chất quyết định để sức lao động trở thành hàng hoá và khi sức lao động trở thành hàng hoá nó là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
    * Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá - sức lao động.
    Cũng như mọi hàng khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính đó là: giá trị và giá trị sử dụng.
    Về giá trị hàng hoá sức lao động: cũng như mọi  hàng hoá khác nó được quy định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất mà ở đây nó được quy định bởi thời gian tái sản xuất ra sức lao động. Muốn tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu hao một lượng tư liệu sinh hoạt. Như vậy thời gian tái sản xuất sức lao động chính bằng thời gian sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Hay nói cách khác giá trị sức lao động bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt.
    Giá trị tư liệu sinh hoạt của một người công nhân bao gồm có giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho bản thân người công nhân; phí tổn học việc của công nhân, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho gia đình người công nhân.
    Về sử dụng hàng hoá sức lao động: Hàng hoá sức lao động không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện khi người công nhân lao động. Khi lao động tạo ra giá trị hàng hoá lớn hơn giá trị của sức lao động.
    b. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
    Trong nền sản xuất hàng hoá dựa vào chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất mục đích sản xuất ra hàng hoá  không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Nhà tư bản luôn muốn sản xuất ra một giá trị lớn hơn giá trị của các tư liệu sản xuất có giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã mua, nghĩa là nhà tư bản muốn sản xuất ra giá trị thặng dư.
    Quá trình sản xuất của chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá, với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái  tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.

    c. Khái niệm về tư bản.
    c.1) Tư bản là quan hệ sản xuất.
    Tư bản chính là các công cụ lao động, tư liệu sản xuất. Định nghĩa như vậy nhằm che dấu thực chất việc nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.
    Thực chất tư liệu sản xuất không phải là tư bản mà nó chỉ là một điều kiện cần thiết để sản xuất trong bất cứ một xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành vật sở hữu của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Như vậy tư bản không phải là vật mà là mối quan hệ sản xuất nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất.
    Từ quá trình tạo ra giá trị thặng dư ta có định nghĩa về tư bản. “Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê”. Tư bản thể hiện mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong đó giai cấp tư sản là người sở hữu tư liệu sản xuất còn giai cấp vô sản là lao động làm thuê bị giai cấp tư sản bóc lột.

    c.2) Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
    Trong quá trình sản xuất các bộ phận khác nhau của tư bản có tác dụng khác nhau. Có bộ phận tư bản thì sử dụng qua nhiều quá trình có bộ phận tư bản lại và tiêu hao toàn bộ và chuyển biến giá trị của nó vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất.
    Trước hết ta xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều loại có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất nhưng chỉ hao mòn một phần, do đó chuyển giá trị có nó vào giá trị sản phẩm một phần, có loại thì chuyển hết giá trị của nó vào giá trị của sản phẩm.
    Từ đó ta có định nghĩa về tư bản bất biến: Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và ký hiệu là C theo như định nghĩa trên tư bản bất biến bao gồm: Máy móc, nhà xưởng, nguyên vật liệu...
    Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì lại khác, lao động của công nhân tạo ra lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động việc làm tăng lượng giá trị giúp cho bộ phận dùng để mua sức lao động không ngừng chuyển hoá từ một lượng bất biến thành khả biến. Từ đó ta có khái niệm về tư bản khả biến.
    Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng không thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên tức là biến đổi về lượng được C.Mác gọi là tư bản khả biến ký hiệu là V.
    Như vậy tư bản bất biến là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình này.

    2. Tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
    a. Tuần hoàn tư bản. Ba hình thức vận động của tư bản.
    a.1) Tư bản vận động qua 3 giai đoạn:
    Tư bản luôn luôn vận động, trong quá trình vận động của nó tư bản lớn lên không ngừng.
    + Giai đoạn thứ nhất: T - H
    Công thức vận động T - H biểu thị việc chuyển một món tiền thành một số hàng hoá: Đối với người mua là việc chuyển hoá tiền của người ấy thành hàng hoá, còn đối với người bán là việc chuyển hàng hoá của người ấy thành tiền. Hành vi lưu thông đó không phải là một hành vi lưu thông hàng hoá bình thường. Đây là một giai đoạn hoạt động nhất định trong vòng tuần hoàn độc lập của một tư bản cá biệt. Dựa vào nội dung vật chất của hành vi tức là do tính chất đặc thù của những hàng hoá do tiền chuyển thành. Hàng hoá này một mặt là các tư liệu sản xuất mặt khác nó là sức lao động. Tức là những nhân tố vật và người của sản xuất hàng hoá. Nếu chúng ta ký hiệu sức lao động là SLĐ và tư liệu sản xuất TLSX thì số hàng hoá H = SLĐ + TLSX.
    SLĐ
     Để gọn hơn ta viết H
    TSLS SLĐ
    Do vậy khi xét về nội dung T - H ta có T - H TLSX
    Như vậy T - H lúc này sẽ phân ra làm hai phần: T - SLĐ và T - TLSX
    Số T chi làm 2 phần một phần dùng mua sức lao động, còn một phần dùng để mua tư liệu sản xuất. Hai hành vi mua bán này nó diễn ra trên thị trường khác nhau. Một loạilà thị trường hàng hoá theo đúng nghĩa là một loại là thị trường lao động.
    Ngoài việc phân chia về chất ấy của số hàng hoá do T chuyển thành thì SLĐ T - H TLSX    còn biểu hiện mối quan hệ về lượng có tính chất rất đặc trưng. Như chúng ta đã biết giá cả của sức lao động trả cho người sở hữu sức lao động được thể hiện dươí hình thái tiền công. ở đây nó bao gồm cả lao động thặng dư. ở đây nó biểu hiện một mối quan hệ giữa cái phần tiền bỏ ra mua sức lao động và các phần tiền bỏ ra để mua tư liệu sản xuất. Các công nhân viên phải bỏ phần sức lao động ra để ứng với phần tiền mà các nhà tư bản bỏ ra, lao động của người công nhân ở đây có một lượng lao động thặng dư.
    Trong các ngành sản xuất công nghiệp khác nhau, việc sử dụng lao động phụ thêm đòi hỏi phải bỏ thêm một giá trị phụ đến mức nào dưới hình thái tư liệu sản xuất, điều đó là không quan trọng. Nhưng những tư liệu  sản xuất do hành vi T - TLSX mua vào phải đủ dùng do đó chúng ta phải đưa ra một tỉ lệ nhất định. Nói cách khác phải có đủ điều kiện sản xuất để thu hút hết khối lượng lao động. Phải đáp ứng đầy đủ tư liệu sản xuất, ứng với lực lượng  lao động đó khi hành vi
    T- H SLĐ đã hoàn thành, người mua không những chi phối được TLSX
    tư liệu sản và sức lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm mà còn chi phối được một sức lao động đang hoạt động hay một lao động lớn hơn mức cần thiết để hoàn lại giá trị của sức lao động. Đồng nhấta người mua còn có những tư liệu sản xuất cần thiết để thực hiện để vật hoá số lao động ấy. Như vậy gia trị ứng ra ban đầu được biểu hiện dưới hình thái là tiền tệ thì bây giờ tồn tại dưới hình thái hiện vật, giá trị hiện vật đó lớn hơn giá trị đầu, có thể nó đã đẻ ra giá trị thặng dư dưới hình thái hàng hoá.
    Giá trị của sản xuất bằng giá trị của TLSX + SLĐ và bằng T. T tồn tại ở đây mang tính chất là tư bản tiền tệ.    SLĐ
    Vì vậy hành vi   T - H TLSX hay dưới công thức chung T - H là tổng hợp số hành vi mua hàng hoá vốn là hành vi lưu thông chung của hàng hoá, là giai đoạn của quá trình tuần hoàn độc lập của tư bản, là quá trình chuyển giá giá trị của tư bản từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá. Hay nói cách khác là sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
    + Giai đoạn 2:
    Đây là giai đoạn sau khi nhà tư bản ra thị trường lao động và thị trường tư liệu sản xuất để mua, TLSX và SLĐ xong đã trút bỏ hình thức tiền tệ của mình để chuyển sang một hình thức khác, mang tính chất hiện vậta. Với hình thức này nó không thể lưu động được và nhà tư bản cũng không thể đem bán công nhân như hàng hoá được. Mặt khác nhà tư bản chỉ có thể buộc công nhân lao động trên tư liệu sản xuất của mình. Như vậy kết thúc giai đoạn thứ nhất là tiền đề, điều kiện bắt buộc để bước vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn của sản xuất. Sự vận động của nó được thể hiện bằng công thức:
    T - H SLĐ ... SX trong công thức này ta thấy có giai đoạn lưu        
                  TLSX                
    thông của tư bản chấm dứt nhưng không tuần hoàn của tư bản cần tiếp tục vì nó đi từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Giai đoạn một chỉ là giai đoạn đầu mở đường cho giai đoạn thứ hai, tức là cho sự hoạt động của tư bản sản xuất.
    T - SLĐ. Người công nhân chỉ sống bằng cách bán sức lao động. Việc duy trì sức lao động đó, đòi hỏi người công nhân phải tiêu dùng hàng ngày. Do vậy việc trả công cho người công nhân phải luôn diễn ra trong thời gian ngắn, để người công nhân duy trì sức lao động của mình. Do đó nhà tư bản luôn phải đối diện với người công nhân với tư cách là nhà tư bản tiền tệ. Mặt khác để cho đông đảo những người sản xuất trực tiếp, tức là người công nhân  làm thuê có thể hoàn thành hành vi SLĐ - T - H thì các tư liệu sinh hoạt cần thiết phải luôn đối diện với họ dưới hình thức có thể mua được. Do đó nó đòi hỏi phải có một nền sản xuất rộng rãi phát triển ở trình độ cao, và sự phân công lao động phát triển. Cùng với sự phát triển đó là TLSX phải được cung cấp và phát triển theo SLĐ. Việc sản xuất ra tư liệu sản xuất tách rời với việc sản xuất ra hàng hoá dùng tư liệu sản xuất âý làm tư liệu sản xuất. Những tư liệu sản xuất ấy được làm ra từ nhiều ngành sản xuất hoàn toàn tách rời với ngành sản xuất hàng hoá đó và được kinh doanh một cách độc lập.
    Trong mọi hình thái của sản xuất xã hội thì tư liệu sản xuất và sức lao động bao giờ cũng là nhân tố của sản xuất. Vì vậy chức năng chủ yếu của tư bản ở đây là phải kết hợp giữa nhân tố người và vật để hình thành nên giá trị của hàng hoá trong giá trị của hàng hoá đó phải có cả giá trị lao động thặng dư của người công nhân.
    Do sự khác nhau trong vai trò mà tư liệu sản xuất và sức lao động chuyển vào giá trị hàng hoá khác nhau. Từ đó chúng ta đưa ra thành hai loại tư bản bất biến và tư bản khả biến. Ta thấy tư liệu sản xuất dù trong giai đoạn nào vẫn là tài sản của nhà tư bản còn hàng hoá sức lao động chỉ trong tay nhà tư bản khi trong quá trình sản xuất vậy. Sức lao động và tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện nhất định của lịch sử.
    Trong khi làm chức năng của mình tư bản sản xuất sử dụng các thành phần bản thân nó để biến các thành phần ấy thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Vì lao động của công nhân chỉ tác động như một khhí quan của tư bản, nên thành phần tăng lên của sản phẩm là do lao động thặng dư làm ra. Nhà tư bản đã thu được một lượng giá trị thặng dư mà không phải trả bằng vật ngang giá. Đó là mục đích của nhà tư bản khi thực hiện chức năng là tư bản sản xuất, công thức chung là: SLĐ
    H ...SX...H’
    TLSX
    (+) Giai đoạn 3. H’...T’
    Hàng hoá H’ ở cuối mỗi giai đoạn 2 bây giờ chuyển sang giai đoạn 3 với một hình thái mới đó là tư bản - hàng hoá. Hàng hoá này đã tăng thêm một lượng giá trị do chính quá trình sản xuất tạo ra. Dưới hình thái hàng hoá của mình tư bản nhất định phải hoàn thành chức năng hàng hoá. Tất cả các vật phẩm cấu thành tư bản đó ngay từ đầu đều được sản xuất cho thị trường, cần phải đem bán chuyển hoá thành tiền. Do đó phải thông qua vận động H - T. Nhưng đây chỉ là công thức vận động của một giá trị không thay đổi, sự chuyển hoá giản đơn. ở đây với tư cách đặc thù là một giai đoạn của quá trình tuần hoàn , hành vi lưu thông ấy lại thực hiện một giá trị tư bản hàng hoá cộng thêm với một lượng giá trị thặng dư cũng nằm trong hàng hoá ấy, do đó hành vi đó phải là H’ - T’, sự chuyển hoá của tư bản hàng hoá từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ.
    H’ được sản xuất ra với chức năng của một sản phẩm hàng hoá, nó được chuyển hoá thành tiền qua quá trình lưu thông H - T. Khi tư bản hàng hoá vẫn nằm bất động trên thị trường thì quá trình sản xuất bị thu hẹp. Tốc độ lưu thông hàng hoá trên thị trường ảnh  hưởng đến quy mô sản xuất, tốc độ nhanh thì quy mô sản xuất là mở rộng, tốc độ chậm quy mô sản xuất là thu hẹp và cũng tuỳ tốc độ bán mà tư bản hàng hoá trút bỏ hình thái của mình để thành tư bản tiền tệ.
    Ta thấy toàn bộ khối lượng hàng hoá H’ mang một giá trị mới, đó là tăng thêm một lượng giá trị, phải thông qua quá trình lưu thông để thu về giá trị mới H’ - T’ lớn hơn giá trị đầu T’ TT.
    Việc bán  H’ thì là trực tiếp trong H’ - T’, nhưng việc mua lại phải thực hiện ở phía kia là T - H. Hàng hoá này được chỉ để dùng cho tiêu dùng, đó là tiêu dùng cá nhân hay là tiêu dùng cho sản xuất, tuỳ thuộc vào tính chất của vật phẩm mua về. Nhưng sự tiêu dùng đó không đi vào tuần hoàn của tư bản cá biệt mà H’ là sản phẩm, sản phẩm đó bị đẩy ra khỏi tuần hoàn với tư cách là hàng hoá cần phải bán đi.
    H’ dù ở mục đích nào nó cũng nằm trong quá trình H’ - T’, để lấy về lượng tiền T’ trong đó T’ >T ban đầu.

    a.2) Tuần hoàn của tư bản.
    Tư bản vận động qua 3 giai đoạn, qua mỗi giai đoạn tư bản tồn tại dưới một hình thức và làm trên một chức năng nhất định. ở giai đoạn I tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ mà chức năng của nó là mua hàng hoá. Cụ thể hơn chính là mua tư liệu sản xuất và sức lao động. ở giai đoạn hai, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất mà chức năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư. Cụ thể hơn ở giai đoạn này nhà tư bản sử dụng sức lao động tác động lên tư liệu sản xuất để tạo nên sản phẩm. Lao động của công nhân làm thuê sẽ tạo ra một lượng sản phẩm mà nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá đó là sản phầm thặng dư. ở giai đoạn III tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hoá chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. ở giai đoạn này nhà tư bản đem hàng hoá ra thị trường bán, trong hàng hoá công nhân làm thêm. Nhà tư bản đem về giá trị bán được lớn hơn lượng giá trị bỏ ra ban đầu.
    Từ quá trình vận động của nhà tư bản ta rút ra định nghĩa về sự tuần hoàn của tư bản.
    Tuần hoàn của tư bản là sự chuyển biến liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trải qua ba hình thái, thực hiện ba chức năng hưởng ứng để trở về hình thức ban đầu với lượng giá trị lớn hơn.
    Vậy quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất, nó bao hàm cả hai. Trong những khâu, những giai đoạn nhất định nó thực hiện một chức năng nhất định. Giai đoạn I và giai đoạn III sự vận động của tuần hoàn diễn ra trong lưu thông. ở hai giai đoạn này nó thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất và bán hàng hoá có chứa đựng cả giá trị thặng dư.
    Giai đoạn II diễn ra trong sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất giá trị và giá trị thặng dư. Giai đoạn II mang tính chất quyết định và chỉ trong giai đoạn này mới sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhưng cũng không vì vậy mà ta phủ nhận vai trò của lưu thông vì nếu không có lưu thông việc sản xuất hàng hoá sẽ bị đình trệ, chúng ta không thể nào tái sản xuất tư bản chủ nghĩa do đó tư bản cũng không tồn tại được.
    Tư bản chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường trong điều kiện  các giai đoạn phải kế tiếp nhau liên tục, không ngừng. Nếu mà gián đoạn ở đâu thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình tuần hoàn của tư bản. Mặt khác tư bản cũng chỉ tuần hoàn một cách bình thường nếu tất cả tư bản của các nhà tư bản phải tồn tại ở ba hình thức: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá, và một bộ phận thứ ba là tư bản hàng hoá phải biến thành tư bản tiển tệ. Không chỉ từng tư bản cá biệt mới thế mà điều này đòi hỏi tất cả các tư bản trong xã hội cũng phải thế. Các tư bản không ngừng vận động, không ngừng trút bỏ hình thức này để mang hình thức khác, thông qua quá trình vận động này tư bản lớn lên. Chúng ta không thể quan niệm tư bản như một vật tĩnh.

    b. Chu chuyển tư bản.
    b.1) Chu chuyển tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản.
    + Chu chuyển của tư bản.
    Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một  quá  trình định kỳ đổi mới và lặp đi lặp lại, chứ không phải là một quá trình cô lập riêng lẻ thì gọi là chu chuyển của tư bản.
    Khi chúng ta nghiên cứu sự tuần hoàn của tư bản, tức là chúng ta đang nghiên cứu về ba hình thái biểu hiện của tư bản qua ba giai đoạn khác nhau thì khi nghiên cứu về chu chuyển của tư bản chúng ta nghiên cứu về tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm và nghiên cứu ảnh  hưởng của tốc độ đối với việc sản xuất  và thực hiện giá trị thặng dư.
    + Thời gian chu chuyển của tư bản.
    Thời gian chu chuyển của tư bản  là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản do cùng dưới hình thức như thế nhưng có thêm giá trị thặng dư.
    Thời gian chu chuyển của tư bản là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại quá trình tăng thêm giá trị của tư bản.
    Như vậy thời gian chu chuyển của tư bản nhất định bằng thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó cộng lại. Đó là thời gian kể từ khi giá trị tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định, cho nên khi giá trị tư bản đang vận động quay về cũng dưới hình thái ấy.
    Mục đích quyết định của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm tăng giá trị tư bản ứng trước. Không kể là giá trị này được ứng ra dưới hình thái độc lập của nó, tức là hình thái tiền tệ hay được ứng ra dưới hình thái hàng hoá. Trong cả hai trường hợp tuần hoàn của nó, giá trị - tư bản đều trải qua những hình thái khác nhau. Do đó dù cho đứng dưới hình thức T...T’ hay hình thức SX...SX thì cả hai đều nói lên rằng:  1. Giá trị tư bản ứng trước đã làm chức năng giá trị tư bản, và đã tự tăng thêm; 2. Khi kết thúc tuần hoàn của nó giá trị ứng trước lại quay về với hình thái ban đầu mà nó mang khi mở đầu tuần hoàn. Việc giá trị ứng trước T tăng thêm một lượng, đồng thời với việc tư bản quay lại hình thái ban đầu biểu lộ rõ trong hình thái T...T’. Nhưng điều dods cũng được diễn ra trong hình thái hai, hình thái này mang tính chất quyết định cho hình thái 1. Nó là yếu tố để tăng giá trị bằng cách sử dụng lao động thặng dư của công nhân tạo ra giá trị tăng thêm.
    Ba hình thái: I>T... T’; II>SX...SX; III>H’...H’ khác nhau như sau. Trong hình thái II (SX...SX) là sự lặp lại của quá trình cụ thể là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành một sự lặp lại hiện thực, còn trong hình thái I thì sự lặp lại chỉ mang tính khả năng cả hai đều khác với hình thái III ở chỗ giá trị tư bản ứng trước không kể ứng ra dưới hình thức tiền tệ hay dưới hình thái các yếu tố sản xuất vật chất - là điểm xuất phát, do đó là điểm quay về. Hình thái I, II giá trị tư bản mang tư cách là tư bản ứng trước, hình thái III, giá trị mở đầu quá trình không phải với tư cách là giá trị ứng trước mà với tư cách là giá trị tăng thêm. Là tất cả những của cải nằm dưới hình thái hàng hoá, mà giá trị tư bản ứng trước chi là một bộ phận thôi.
    Những hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu chuyển của một tư bản bao giờ cũng bắt đầu bằng việc tư bản ứng trước và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị tư bản đang lưu thông phải quay trở về hình thái mà nó đã ứng ra. Nếu xem xét ảnh hưởng của chu chuyển đến giá trị thặng dư trong tuần hoàn I và II thì nên xem xét trong tuần hoàn I, nếu nói đến ảnh hưởng của sự chu chuyển đối với việc tạo ra sản phẩm thì cần xem xét tuần hoàn II.
    Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuất nào đó, hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở về hình thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản thì nó phải lặp lại tuần hoàn ấy.
    Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ chứ không phải là một hành vi cá biệt thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển ấy được quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn của tổng giá trị tư bản đến định kỳ tuần hoàn tiếp theo.
    Nếu không nói đến sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy mạnh hay rút ngắn thời gian chu chuyển đối vơí một tư bản cá biệt thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tuỳ theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu tư cá biệt của tư bản.

    b.2) Tư bản cố định, tư bản lưu động.
    Khi nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản chúng ta xem các bộ phận tư bản chu chuyển như nhau. Nhưng trong thực tế, giá trị các bộ phận tư sản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác nhau.
    Như chúng ta đã biết một bộ phận của tư bản bất biến nếu đem đối chiếu nó với những sản phẩm mà nó góp phần để chế tạo, thì rõ ràng là giữ nguyên  hình thái sử dụng nhất định của nó như lúc mới bước vào quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản bất biến đó chuyển vào giá trị cho sản phẩm theo mức độ  mà bản thân nó hao phí mất giá tự trao đổi, song song với gía trị sử dụng của nó.
    Đặc trưng của bộ phận tư bản bất biến đó là:
    Một bộ phận của tư bản đã được ứng ra dưới hình thái tư bản bất biến, nghĩa là dưới hình thái những tư liệu sản xuất  để từ đó, hoạt động làm một yếu tố của quá trình lao động, trong suốt thời gian  nó giữ được hìn thái sử dụng đặc thù của nó như  khi mới gia nhập quá trình lao động ấy. Các tư liệu sản xuất khi đã vào quá trình sản xuất thì không bao giờ ra khỏi quá trình sản xuất. Một bộ phận của giá trị tư bản ứng ra được cố định dưới hình thái ấy, hình thái ấy là do chức năng của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất quyết định. Do hoạt động khi lao động một bộ phận đi vào vật phẩm một bộ phận nó bị hao mòn còn một bộ phận vẫn cố định trong tư liệu lao động. Tư liệu lao động càng bên lâu, càng ít hao mòn thì giá trị tư bản bất biến sẽ được cố định dưới hình thái sử dụng ấy trong một thời gian càng lâu. Nhưng bất luận thế nào thì số lượng nhượng đi tỉ lệ  nghịch với thời gian hoạt động của nó.
    Bộ phận tư bản cố định trong tư liệu sản xuất cũng lưu thông, nó lưu thông không phải dưới hình thái sử dụng mà nó lưu thông dưới hình thái gia trị. Giá trị của nó lưu thông dần dần theo nhịp độ để chuyển vào sản phẩm. Trong suốt quá trình sản xuất giá trị của nó nằm trong nó một cách cố định, độc lập với hàng hoá mà nó góp phần sản xuất ra. Đây là đặc điểm khiến tư bản bất biến mang hình thái tư bản cố định. Từ đó ta có định nghĩa về tư bản cố định.
    Tư bản cố didnhj là bộ phận tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó lại không chuyển hết một lần mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm.
    Tư bản cố định có hình thái lưu thông đặc biệt thì cũng có một cách chu chuyển đặc biệt phần giá trị bị mất do hao mòn tự nhiên thì giờ lưu thông chuyển nó thành tiền, một phần nữa là giá trị của tư liệu lao động. Như vậy tư bản cố định tồn tại hai hình thái giá trị. Một bộ phận gắn liền với hình thái sử dụng, một bộ phận chuyển thành tiền.
    Ta thấy một bộ phận của giá trị tư bản, ứng ra dưới hình thái tư liệu sản xuất, nó có mang bản chất là tư bản cố định hay không còn phụ thuộc vào pưhơng thức lưu thông. Chúng ta biết một sản phẩm khi bước ra khỏi với hình thái hàng hoá mà lại quay trở về với sản xuất mang tính hình thái tư liệu sản xuất, chính vì hoạt động này nên chúng ta trở thành tư bản cố định. Nhưng khi chúng mới chỉ bước ra khỏi một  quá trình thì nó không phải là tư bản cố định. Mặt khác, tư liệu sản xuất khi nhà tư bản đưa vào sản xuất thì nó chuyển hết giá trị của nó vào giá trị cuả sản phẩm. Do đó ta thấy tư liệu sản xuất không phải kể tư bản cố định.
    Bây giờ ta nói đến yếu tố khả biến của tư bản sản xuất, tức là tư bản chi ra để mua sức lao động. Sức lao động được mua trong thời gian nhất định. Khi nhà tư bản đã mua sức lao động và đưa nó vào quá trình sản xuất thì sức lao động trở thành một yếu tố của tư bản. Khi đưa sức lao động vào quá trình sản xuất, trong một thời gian nhất định sức lao động không những làm ra một lượng giá trị bằng với lượng giá trị của vật ngang giá mà nhà tư bản trả công cho người công nhân đó thì sức lao động còn làm ra một lượng giá trị tăng thêm không được trả công bằng vật giang giá. Lượng giá trị thăm thêm đó gọi là giá trị thặng dư.
    Sức lao động khi đã được mua và hoạt động. Giá trị của nó không ngừng chuyển vào giá trị của sản phẩm. Theo một thời gian nhất định, sức lao động lại được mua tiếp, nó được mua liên tục và không ngừng. Cái ngang giá với giá trị của sức lao động mà nó chuyển vào sản phẩm trong khi hoạt động để  chuyển hoá thành tiền trong quá trình lưu thông của sản phẩm. Cái giá trị đó nhấta thiết phải không ngừng được chuyển hoá từ tiền thành sức lao động, phải không ngừng đi qua toàn bộ vòng tuần hoàn của các hình thái của nó, nói một cách khác phải không ngừng luân chuyển thì vòng tuần hoàn của sản xuất mới có thể tiếp tục không bị gián đoạn.
    Như vậy, bộ phận  giá trị của tư bản sản xuất bỏ ra để mua sức lao động được chuyển toàn bộ vào sản phẩm và cùng với sản phẩm thông qua hai biến hoá hình thái thuộc lĩnh vực lưu thông, do sự đổi mới không ngừng, nên bộ phận đó luôn luôn gắn vào quá trình sản xuất. Mặc dù về mặt hình thành giá trị, giữa sức lao động và những yếu tố bất biến không là phải là tư bản cố định, có sự khác nhau thế nào chăng nữa thì phương thức chu chuyển lại giống nhau và đối lập với tư bản cố định. Những yếu tố của tư bản sản xuất đối lập với tư bản cố định do các tính chất chung đó của phương thức chu chuyển của chúng vì chúng là tư bản luân chuyển hay tư bản lưu động. Từ đó ta có định nghĩa về tư bản cố lưu động.
    Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất  có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ sau khi hàng hoá đã bán xong.
    Giá trị của sức lao động và tư liệu sản xuất chỉ bỏ ra trong thời gian cần thiết để chế tạo ra sản phẩm. Căn cứ vào quy mô sản xuất do khối lượng tư bản cố định quyết định. Giá trị này nhập toàn bộ vào sản phẩm, do việc bán  sản phẩm toàn bộ giá trị đó từ trong lưu thông quay trở về và lại có thể ứng ra lần nữa. Sức lao động và tư liệu sản xuất phải không ngừng thay thế và đổi mới bằng cách mua lại và chuyển chúng từ hình thái tiền tệ thành yếu tố sản xuất. Sức lao động và tư liệu sản xuất không ngừng trải qua toàn bộ vòng tuần hoàn của các biến hoá hình thái; chúng không ngừng chuyển hàng hoá trở lại các yếu tố sản xuất và lại chuyển hoá trở lại cùng thứ hàng hoá đó.
    Khi chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động cũng là một bộ phận chia khoa học, hợp lý. Sự phân chia này rất cần thiết cho quản lý kinh tế, tuy nhiên chúng ta không nên nhầm lẫn với sự phân chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa trên tác dụng khác nhau của các bộ phận khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
    Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Khi tư bản cố định chu chuyển được một vòng thì tư bản lưu động chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản cố định thời gian chu chuyển của các yếu tố là không giống nhau.
    Chúng ta đề cập đến vấn đề hao mòn ở trên. Có hai hình thức  phân chia hao mòn của tư bản cố định: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
    Hao mòn hữu hình là hao mòn do sự sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận cuả tư bản cố định dần hao đi đến chỗ hỏng, không sử dụng được nữa.
    Hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng bị mất giá vì có những máy móc mới tốt hơn, tối tân hơn xuất hiện.
    Để khôi phục lại tư bản cố định đã hao mòn nhà tư bản phải lập quỹ khấu hao. Sau từng thời kỳ bán hàng họ đều trích ra một số tiền ngang với mức độ hao mòn của tư bản cố định để bổ vào quỹ khấu hao được dùng vào việc sửa chữa cơ bản một phần khác được đem vào gửi ngân hàng, chờ đến thời kỳ mua máy móc hoặc xây dựng nhà xưởng mới.

    b.3) Chu chuyển chúng và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước.
    Sau khi nghiên cứu tư bản cố định và tư bản lưu động C.Mác phân chu chuyển của tư bản ứng trước thành chu chuyển chung (chu chuyển trung bình) và chu chuyển thực tế.
    Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản.
    Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng như về mặt hiện vật.
    Chu chuyển thực tế do thời gian tồn tại của tư bản cố định đầu tư quy định. Chu chuyển thực tế không ăn khớp với chu chuyển chung của nó. Chu chuyển thực tế thường rút ngắn lại hơn so với chu chuyển chung do ảnh hưởng của hao mòn vô hình.
    Sau khi nghiên cứu chu chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước ta đã hiểu chu chuyển một cách cụ thể hơn và có thể phân biệt được rõ hơn sự khác nhau giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.

    b.4) Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm. Những phương pháp tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
    + Tỷ suất giá trị thặng dư.
    Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó, tức là tỉ số theo đó tư bản khả biến tăng thêm giá trị C.Mác đã dùng ký hiệu m’ để chỉ tỉ suất giá trị thặng dư.
    Công thức tính tỉ suất giá trị thặng dư là.
    m’ = mV  x 100%
    Tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột công nhân về thực chất tỉ lệ này là tỉ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên tỷ suất này không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột.
    + Tăng tỷ suất chu chuyển của tư bản là để năng suất cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư tạo ra một năm với tư bản khả biến ứng ra trước.
    Tuy rằng tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi nhưng tư bản chu chuyển càng nhanh, số vòng chu chuyển của tư bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng dư càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng cao.
    Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm che dấu mối quan hệ thực sự giữa tư bản với lao động, gây ảo tưởng là tỷ suất giá trị thặng dư không những chỉ phụ thuộc vào sự bóc lột sức lao động mà còn phụ thuộc vào tốc độ lưu thông của tư bản nữa. C. Mác nói “Hiện nay có thể làm cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng và trình độ bóc lột sức lao động do tư bản khả biến làm cho hoạt động, mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích được do quá trình lưu thông đẻ ra”.
    Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp cho nhà tư bản làm việc đó.
    Tuy nhiên cũng có các yếu tố làm cho tốc độ chu chuyển của tư bản chậm xuống.
    Kỹ thuật càng phát triển thì tư bản cố định càng lớn, mà tư bản cố định thì chu chuyển chậm, do đó ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ tư bản.
    Sự bố trí sản xuất không hợp lý cho nguyên vật liệu và hàng hoá vận tải loanh quanh, tốn thời gian.
    Sự tiêu thụ hàng hoá gặp khó khăn hàng hoá hay bị ứ đọng. Đó là những mâu thuẫn mà tư bản gặp phải trong quá trình chu chuyển của nó. Vì vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản có xu hướng chậm lại.
    Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa đi, thì những nguyên lý về chu chuyển của tư bản cũng thích ứng đối với kinh tế ở nước ta hiện nay. Trong nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta càng rút ngắn được thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, thì việc sử dụng các nguồn nhân lực vật lực và tài lực càng hợp lý có lợi cho toàn xã hội.

    B. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi chuyển nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
    1. Cơ chế thị trường
    Trong nền kinh tế hàng hoá có một loại quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật ấy đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá trị thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
    Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
    Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn, mà là một trật tự kinh tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó mà nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
    Chính có cơ chế thị trường chúng ta giải quyết được bao nhiêu vấn đề khó khăn của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vấn đề sản xuất, quản lý sản xuất, vấn đề về thị trường giá cả, vấn đề lưu thông hàng hoá... Từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường chúng ta có một bước tiến lớn trong vấn đề sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hoá. Chúng ta không còn rơi vào tình trạng khan hiếm hàng hoá như trước kia. Không còn tình trạng độc quyền giá cả. Hàng hoá  của chúng ta sản xuất và hàng hoá của nước ngoài tràn ngập thị trường, giúp cho người mua có thể tuỳ thích lựa chọn cái gì  mà mình thích. Qua thị trường giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong vấn đề tạo vốn và cũng thông qua thị trường nó đào thải những doanh nghiệp làm ăn yếu kém. Không đủ sức cạnh tranh, mang nặng cơ chế quản lý quan liêu bao cấp của thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Khi chuyển sang cơ chế thị trường chúng ta có một sự thay đổi rõ rệt. Sau hơn mỗi năm chuyển đổi chúng ta như được lột xác. Tình hình sản xuất phát triển, y tế giáo dục được quan tâm, giao thông vận tải mở rộng... Đặc biệt hợn là đời sống người dân được nâng cấp thu nhập của người dân được nâng cao.
    Bên cạnh những thuận lợi mà nền kinh tế thị trường nó đem lại cho chúng ta rất nhiều  khó khăn như: cạnh tranh không lành mạnh sự độc quyền, không kiểm soát nổi thị trường. Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận vì vậy nó bất chấp sự ô nhiễm môi trường, lạm dụng tài nguyên thiên nhiên một cách vô tổ chức, gây ra sự ô nhiễm môi trường trầm trọng, người dân là những người phải gánh chịu nhiều nhất. Do chuyển sang cơ chế mới, chúng ta du nhập một nền văn hoá mới của thế giới, chúng ta chưa có sự chọn lọc kỹ nên có những thứ văn hoá xáo thâm nhập đặc biệt là thanh niên, tạo nên rất nhiều tệ nạn xã hội.
    Kinh tế thị trường nó tác động làm cho sự phân hoá giàu nghèo càng lớn. Người giàu cứ giàu lên, người nghèo cứ nghèo đi.
    Kinh tế thị trường làm cho khủng hoảng có tính chu kỳ. Các vấn đề vĩ mô của kinh tế: thất nghiệp, lạm phát diễn ra khó quản lý. Kinh tế thị trường đem lại cho chúng ta nhiều kết quả rất khả quan nhưng trái lại nó đem lại cho chúng ta nhiều kết quả rất khả quan nhưng trái lại nó đem lại cho chúng ta rất nhiều khó khăn, thất bại.

    2. Vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh thị trường.
    Nhà nước có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
    * Nhà nước là một thành phần kinh tế chủ yếu.
    Nhà nước vẫn còn giữ một vai trò to lớn như một tác nhân trực tiếp trong nền kinh tế.
    - Sản xuất.
    Nhà nước sản xuất hàng hoá qua các doanh nghiệp quốc doanh. Khu vực quốc doanh tồn tại ở mọi nền kinh tế thị trường, quy mô của nó tuỳ thuộc lịch sử, chính sách của nhà nước đó.
    Nhà nước giữ vai trò cơ bản trong lĩnh vực dịch vụ, các dịch vụ cung ứng bởi các cơ quan nhà nước có đặc trưng là không bán trên thị trường. Người dùng dịch vụ này không phải mua, không phải trả tiền. Chúng được cung ứng miễn phí cho công chúng. Nhà nước thường cung cấp các dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, thông tin (truyền hình, truyền thanh, báo chí...) Những ví dụ trên cho thấy vai trò chủ yếu của nhà nước trong việc sản xuất ra những dịch vụ không thể thiếu được đối với xã hội.
    Nhà nước ta còn độc quyền trong việc sản xuất các sản phẩm phục vụ trong quân đội.
    - Cung, cầu, vốn trên thị trường vốn:
    Nhà nước là một tác nhân có thể thiếu vốn, có thể thừa vốn. Vì vậy nhà nước cũng hoạt động trên thị trường vốn để cầu hoặc cung vốn. Đặc biệt tình hình nhà nước ta là sự thiếu vốn. Nhà nước huy động nguồn vốn bằng cách bán trái phiếu của nhà nước cho nhân dân. Hiện nay trên thị trường vốn của chúng ta có một cái mới là chúng thành lập được thị trường chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam. Thông qua sự hoạt động của thị trường chứng khoán, chúng ta có thể điều tiết, luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Mặc dù ta thấy được thị trường chứng khoán của chúng ta hiện nay phát triển chưa mạnh, chưa hiệu quả, nhưng về lâu dài nó sẽ rất tốt cho sự hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề huy động vốn.
    - Phân phối thu nhập.
    Qua ngân sách của mình, nhà nước tác động mạnh mẽ tới mức thu nhập của các thành phần kinh tế khác. Thuế làm giảm thu nhập của đơn vị bị đánh thuế. Ngoài ra, cơ quan nhà nước cần nhiều công nhân viên chức để hoạt động nên nhà nước phát ra một khối lượng tiền rất lớn (thông qua việc trả lương), tăng thu nhập của các hộ gia đình có người làm việc cho nhà nước. Nhà nước áp dụng đánh thuế thu nhập vào những người có thu nhập cao. Bên cạnh đó nhà nước tăng cường trợ cấp xã hội: Bảo hiểm người nghèo... Đó là một hình thức phân bố lại thu nhập từ người có thu nhập cao chuyển bớt một phần nhỏ cho người có thu nhập thấp.
    * Nhà nước là chính quyền tạo môi trường thể chế:
    Nhà nước lập pháp có vai trò tạo ra luật lệ có các hoạt động kinh tế (luật thương mại, hợp đồng kinh tế, lao động, hệ thống sở hữu, luật công ty...) luật quy định quyền và nghĩa của mỗi tác nhân  (người chủ doanh nghiệp, người làm công, người mua hàng...) tạo tính an toàn, ổn định cần thiết cho nền kinh tế. Nhà nước  cũng có nhiệm vụ kiểm tra việc thi hành luật bằng cách thông tin phổ biến luật đào tạo và lập một bộ máy tư pháp và công an vững chắc và có hiệu quả.
    * Nhà nước chịu trách nhiệm về tình hình kinh tế vĩ mô và bảo vệ quyền lợi chung và dài hạn.
    Trong khi các đơn vị kinh tế tự chủ về các quyết định của mình và gánh chịu về kết quả hoạt động của mình thì nhà nước chịu trách nhiệm cân bằng tổng thể của nền kinh tế quốc gia. Cung và cầu gặp nhau trên thị trường tạo ra giá, Nhà nược chịu về mức giá chung tức là về lạm phát.
    Trong các hoạt động xuất và nhập khẩu, nhà nước phải lo giữ cân bằng cán cân thương mại đối với nước ngoài. Không ai thích trả thuế nhưng nhà nước cần phải có nguồn ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư và phát triển y tế, giáo dục, giao thông vận tải. Nhà nước còn phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tài sản quốc gia.
    Để đảm nhận được các nhiệm vụ này, Nhà nước dùng những phương thức riêng của mình: dùng các chính sách để điều tiết hoạt động kinh tế, quyền lập pháp để định hướng cho hoạt động của các tác nhân khác. ở đây nhà nước chỉ định hướng chứ không điều hành hoặc quản lý trực tiếp.
    * Nhà nước bảo trợ:
    Nhà nước có bổn phận bảo trợ cho những thành phần xã hội không có khả năng phát biểu quan điểm và bảo vệ quyền lợi của mình. Những người yếu kém trong bối cảnh thị trường cạnh tranh: bảo vệ những người lao động trong thời kỳ thất nghiệp cao (bằng cách duy trì một mức thu nhập tôí thiểu), giúp những đơn vị thu nhập thấp để họ có  khả năng mua (hỗ trợ các hộ nghèo, các doanh nghiệp nhỏ), tài trợ những ngành sản xuất không có lãi nhưng lại hữu ích cho xã hội (ví dụ: vận tải công cộng, xây dựng công viên...); bảo vệ các ngành hoạt động tặp tình thế khó khăn (ví dụ: ngành thủ công bị cạnh tranh quốc tế quá khắc nghiệt).
    Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động theo sự điều tiết của thị trường là chính. Nhưng vẫn còn một số vấn đề vẫn cần phải có sự can thiệp của nhà nước để nền kinh tế là cân bằng, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và xã hội.

    3. Sự hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
    Khi chuyển sang từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp của nước ta, ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước gặp rất nhiều khó khăn vì khi chuyển đổi từ hình thái kinh tế này rằng hình thái kinh tế khác, các doanh nghiệp  chưa bắt kịp cơ chế mới. Nhưng bên cạnh những khó khăn đó thì các doanh nghiệp của chúng ta có những thuận lợi lớn để phát triển cả về quy mô sản xuất lẫn chất lượng của hàng hoá. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp có cơ chế quản lý hợp lý năng động, sáng tạo sẽ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp này sẽ có thế mạnh, trong việc chiếm lĩnh thị trường.
    Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý theo định hướng XHCN. Chúng ta đã chuyển toàn bộ mô hình quản lý cũ, một hình thức quản lý quan liêu bao cấp sang một cơ chế quản lý mới, một cơ chế quản lý năng động, sáng tạo đáp ứng được sự biến động không ngừng của thị trường cũng như của xã hội.
    Vấn đề đối với các doanh nghiệp của chúng ta bây giờ là làm sao để sản xuất kinh doanh tốt để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội, để có thế cạnh tranh tốt với hàng hoá của các doanh nghiệp khác mà đặc biệt là lượng hàng hoá nước ngoài tràn ngập thị trường của chúng ta, vấn đề vốn với các doanh nghiệp của nước ta là một vấn đề nan giải.

    a. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
    Khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế mới, chúng ta thấy xuất hiện thêm nhiều thành phần kinh tế. Trước kia thành phần kinh tế nhà nước chiếm  vai trò chủ đạo quan trọng trong nền kinh tế thì bây giờ các doanh nghiệp nhà nước không còn giữ được vai trò chủ đạo ấy nữa, các thành phần kinh tế tư nhân, liên doanh có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Nhưng ta thấy nhà nước vẫn xác định chuyển đổi nền kinh tế vẫn giữ thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
    * Các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế mới.
    Doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây chỉ là cơ cấu chấp hành - nhận vốn, vật tư chỉ thị, mệnh lệnh sản xuất từ cấp trên và giao nộp sản phẩm, hàng hoá làm ra cho cấp trên.
    Ngày nay trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể sản xuất kinh doanh. Nó phải lựa chọn, phải tự mình quyết định sản xuất cái gì? cho ai? sản xuất như thế nào? và phân phối kết quả do sản xuất đem lại sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với nhà nước.
    Trong khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, nhà nước vẫn xác định thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước đối với các thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đổi mới và vươn lên không ngừng.
    Các doanh nghiệp nhà nước giữ một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp nhà nước  được phép sản xuất các mặt hàng mà nhà nước không cho phép các thành phần kinh tế khác được sản xuất: sắt thép, xi măng, dầu lửa, các mặt hàng quân dụng... Trước kia các doanh nghiệp nhà nước chỉ sản xuất kinh doanh với nghĩa vụ nhà nước, lỗ thì nhà nước chịu, lãi nhà nước thu vì vậy, không có một động lực cho công nhân viên chức ham lao động khi chuyển sang cơ chế mới các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình cho nên các doanh nghiệp không ngừng đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ ứng dụng kỹ thuật tiên tiến của thế giới để giảm sức lao động tăng năng suất lao động, giúp cho hàng hoá có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với các mặt hàng khác. Các doanh nghiệp của ta đang chuyển đổi dần cơ cấu quản lý sản xuất mới, đó là cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh. Đảng và Nhà nước thấy cần thiết phải cổ phần hoá các doanh nghiệp nên đã ra quyết định cho phép các doanh nghiệp đủ điều kiện có thể cổ phần hoá. Mặc dù tiến độ cổ phần hoá của chúng ta rất chậm chạp nhưng xét về lâu dài đó là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển mạnh cả về quy mô lẫn chất lượng. Khi tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước có nghĩa là chúng ta phải rút bớt sự quản lý trực tiếp của nhà nước đối với các doanh nghiệp, chúng ta đã để cho chính công nhân lao động tham gia góp vốn cổ đông tự điều hành quản lý. Khi người lao động tự quyết định chính lợi ích của mình thì họ sẽ có trách nhiệm hơn, hiệu quả sản xuất được tăng hơn.
    Bên cạnh sự nỗ lực của nhà nước nhằm tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thì chúng ta vẫn cần thấy một bộ phận những người lãnh đạo các doanh nghiệp quan liêu bao cấp làm cho các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Thực tế cho thấy một số doanh nghiệp chỉ tồn tại trên danh nghĩa còn sự hoạt động của nó là không, một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ gây thiệt hại chio chính phủ hàng chục tỉ đồng.
    * Các thành phần kinh tế khác.
    Khi chuyển đổi cơ chế hoạt động, nhà nước vẫn luôn chú trọng và phát huy  vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp quốc doanh. Nhưng bên cạnh đó nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển nhằm làm cho nền kinh tế phát triển. Khi khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, tiểu chủ... phát triển là nhà nước đã phát huy được hết nội lực của mình. Qua sự hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh nó có thể bù đắp những thiếu  sót của các doanh nghiệp nhà nước.
    Hiện nay ở nhà nước ta tình hình hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân rất phát triển. Mặc dù quy mô hoạt động của nó nhỏ nhưng nó lại đem lại một phần rất lớn cho nguồn thu ngân sách. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực sản xuât thủ công, tiểu thủ công, và công nghiệp nhẹ, đây là các thành phần kinh tế đóng góp không nhỏ cho ngân sách nhà nước.
    Các doanh nghiệp tư nhân có thể đứng vững trên thị trường. Một số doanh nghiệp còn đại diện cho doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh với các hãng sản xuất của nước ngoài giúp phần đem lại lợi nhuận cho nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu được hình thành từ việc một vài người góp vốn làm ăn kinh doanh nên  thấy sự quản lý hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân rất hiệu quả. Nhà nước ngoài việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước phát triển còn khuyến khích doanh nghiệp liên doanh với các công ty nước ngoài, thông qua đó sẽ đem lại lợi ích lớn cho cả hai bên. Nhà nước ta xây dựng rất nhiều khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng phục vụ nhằm thu hút các công ty, doanh nghiệp nước ngoài vào liên doanh, đầu tư tại Việt Nam thông qua đó nhà nước ta sẽ thu hút được vốn và kỹ thuật của nước ngoài vào phục vụ trong nước. Nhưng ta thấy các khu công nghiệp, khu chế suất  hiện nay hoạt động kém hiệu quả, ít công ty nước ngoài đăng ký, đây chính là một phần nguyên nhân của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chúng ta.
    Hiện nay ta thấy một số doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước. Quan tâm phát triển doanh nghiệp tư nhân là rất cần thiết ngoài việc nó đem lại cho chúng ta lợi ích về kinh tế nó góp phần giải quyết cho chúng ta một số lượng lớn người thất nghiệp.
    Bên cạnh cái lợi mà các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh nó đem lại cho nền kinh tế của chúng ta thì nó cũng đem lại cho chúng ta rất nhiều điều rắc rối: các công ty ma chuyên lừa đảo, các công ty trông tránh sự quản lý của các cơ quan chức năng... Chính các doanh nghiệp như thế sẽ gây ảnh hưởng làm mất lòng tin đối với người dân, đối với nhà đầu tư.
    Những thành quả từ khi đổi mới có được, là do chúng ta đổi mới cách quản lý, do các doanh nghiệp của chúng ta đã thực hiện tốt các vấn đề sau:
    - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa thị trường - đổi mới công nghệ vốn trong quá trình đổi mới công nghệ.
    Đổi mới công nghệ là một đòi hỏi khách quan đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào vì có đổi mới công nghệ mới nâng cao được chất lượng hạ thấp chi phí, nâng cao năng suất lao động, tăng sản lượng, giải quyết tốt khó khăn trong sản xuất, tạo ra sản phẩm mới. Do đó mới tăng được sức cạnh tranh trên thị trường. Để thành công trong vấn đề đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề có quan hệ hữu cơ, ràng buộc lẫn nhau, tạo thành thế kiềng ba chân, là thị trường - đổi mới công nghệ - vốn (trong đó thị trường là khâu đột phá).
    Đổi mới công nghệ phải gắn liền với đổi mới sản phẩm, mà sản phẩm là sản phẩm thị trường có nhu cầu và doanh nghiệp có khả năng đáp ứng. Từ yêu cầu về số lượng chất lượng, giá cả sản phẩm mà lựa chọn công nghệ thích hợp. Sau khi đã có thị trường, lựa chọn được công nghệ thích hợp thì giải pháp tạo vốn giữ vị trí cực kỳ quan trọng. Tuỳ điều kiện thực tại của mỗi doanh nghiệp mà có hình thức và biện pháp tạo vốn thích hợp. Liên doanh toàn phần hoặc từng phần để có vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến. Vay vốn ngân hàng để mua máy móc, trang  thiết bị phục vụ sản xuất...
    - Chuyển hướng kinh doanh và lựa chọn mặt hàng thích hợp với nhu cầu thị trường.
    Thị trường biến đổi sôi động, sản xuất phát triển không ngừng đời sống dân cư được nâng lên buộc các doanh nghiệp phải vật lộn với thị trường, phải thay đổi nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh.
    Trong sự thay đổi đó doanh nghiệp nào nắm bắt được thị trường khai thác tốt nguồn lực hiện có để áp dụng thì doanh nghiệp đó tồn tại, phát triển và chiến thắng trong cạnh tranh.
    Các doanh nghiệp phát triển tốt trong mấy năm qua là các doanh nghiệp đã nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường từ đó đưa ra các phương án sản xuất - kinh doanh phù hợp. Tuy điều kiện cụ thể, các doanh nghiệp có sự thay đổi khác nhau.
    + Chuyển hướng mặt hàng. giảm dần hoặc loại trừ mặt hàng truyền thống chuyển sang sản xuất mặt hàng mới thị trường có nhu cầu.
    + Đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá kinh doanh là xu thế diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp thành đạt. Sự đa dạng hoá được thực hiện theo các hướng: Một là nâng tỷ trọng và chất lượng mặt hàng truyền thống kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm. Hai là, đa dạng hoá kinh doanh. Ba là đa dạng hoá sản phẩm theo hướng mở rộng các mặt hàng có cùng công nghệ, cùng sử dụng nguyên liệu để tận dụng tốt năng lực máy móc thiết bị nguyên liệu hoặc công nghệ khác để tận dụng lao động nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    - Đảm bảo nâng cao chất lượng và quản lý chất lượng.
    Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN các doanh nghiệp phải quan tâm đến đảm bảo và nâng cao chất lượng. Điều này càng trở lên cấp bách khi Việt Nam ra nhập AFTA và tiến tới ra nhập APEC, WTO. Các doanh nghiệp cần thiết phải coi trọng quản lý chất lượng và phải quản lý chất lượng theo quan điểm hiện đại (Quản lý chất lượng đồng bộ TQM và thực hiện ISO 9000).
    Kinh nghiệm của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là:
    + Không ngừng nâng cao chất lượng và dịch vụ. Đây là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
    + Coi trọng quản  lý chất lượng thực chất là quản lý sản xuất kinh doanh có chất lượng. Do vậy nó xuyên suốt và bao quát các mặt quản lý của doanh nghiệp.
    + áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 đối với các doanh nghiệp  có hàng xuất khẩu.
    + áp dụng các biện pháp đồng bộ để đảm bảo và nâng cao chất lượng, đặc biệt coi trọng các biện pháp: Đổi mới công nghệ là trọng điểm và đồng bộ để nâng cao trình độ công nghệ và trình độ sản phẩm, đối với Việt Nam hiện nay khi trình độ công nghệ còn thua kém thế giới 2 - 3 thế hệ thì đổi mới công nghệ được coi là nền tảng là khâu đột phá của đảm bảo và nâng cao chất lượng. Hai là trên cơ sở đổi mới công nghệ chúng ta phải chú ý đến các biện  pháp khác rất quan trọng liên quan trực tiếp tới đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ như: xây dựng các chính sách chất lượng. Khuyến khích vật chất  với đảm bảo nâng cao chất lượng...
    - Tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả snả xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
    Trong những năm qua các doanh nghiệp đã có sự đổi mới khá căn bản bộ máy tổ chức quản lý theo hướng gọn, nhẹ và động lực cho phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một số doanh nghiệp giá nhập tổng công ty nhằm thúc đẩy phân công, hợp tác sản xuất, thúc đẩy quá trình tập trung hoá sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh của ngành và các doanh nghiệp thành viên. Mặt khác vẫn thực hiện sự phân cấp hợp lý giữa tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên theo hướng phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thành viên có trách nhiệm tự đảm bảo vốn  kinh doanh, chủ động trong sản xuất và kinh doanh và toàn quyền phân phối kết quả của mình làm ra sau kỳ đã thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Điều đó tạo động lực cho các doanh nghiệp. Để tồn tại lâu dài, các chủ doanh nghiệp tư nhân phải có các chiến lược, thành quả cũng như hậu quả đều thuộc về họ. Vì vậy yên tâm đầu tư là những hướng tới tương lai. Các doanh nghiệp nhà nước thì khác mỗi lần một người lãnh đạo chỉ nhìn lợi ích trước mắt trong thời gian lãnh đạo cho nên đến khi người khác lên thay lại phải thực hiện lại. Họ không chú ý đến xây dựng chiến lược lâu dài.

    b. Vấn đề về vốn của doanh nghiệp nước ta hiện nay.
    Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh được thì phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường vẫn tồn tại ở nhiều dạng: tài sản, tiền, sức lao động... Có rất nhiều nguồn vốn khác nhau: Vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn vay, vốn tự có, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết, vốn do nước ngoài tài trợ... Từ các nguồn vốn này các doanh nghiệp phải tìm một giải pháp, một nguồn vốn sao cho hợp lý để đưa vào kinh doanh sản xuất. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh hay gọi là các doanh nghiệp nhà nước nguồn vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp là ngân sách nhà nước. Nhà nước trực tiếp bỏ ngân sách của mình ra cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hàng năm nhà nước thu về một lượng nào đó, hiện nay là 6% đối với số tiền nhà nước bỏ ra. ở đây khoản này ta gọi là khoản thu có sử dụng vốn của nhà nước, trước đây ta thấy có một hiện tượng nhà nước bỏ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh, khi lỗ nhà nước lại phải chịu bù đắp 100% nhưng bây giờ nhà nước chỉ bù  đắp một phần nào đó. Ngoài ra hiện nay nhà nước cổ phần hoá, liên doanh toàn phần và từng phần với nước ngoài để có vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Còn đối với các doanh nghiệp tư nhân nguồn vốn chủ yếu là do chủ tư nhân tự có, hoặc do đóng góp. Song bên cạnh đó các doanh nghiệp này huy động vốn từ nước ngoài, từ cổ đông của công ty hoặc là liên doanh liên kết vốn vay ngân hàng.
    Đối với các doanh nghiệp cả quốc doanh lẫn tư nhân trong cơ chế thị trường, nguồn vốn vay ngân hàng là một phần trong cơ cấu vốn của doanh  nghiệp. Nhà nước có nhiều ưu đãi khi đề ra các mức lãi suất khác nhau khi vay ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất. Nhưng tình hình thực tế hiện nay cho thấy rằng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả, chưa đủ sức cạnh tranh và thích nghi với cơ chế thị trường, ngày càng kéo dài, kể cả nợ ngân sách, nợ chiếm dụng vốn lẫn nhau phổ biến.
    Từ kinh doanh thua lỗ, nợ nần dây dưa khó đòi dẫn đến khả năng tự tích luỹ của doanh nghiệp rất hạn chế, tái đầu tư đổi mới thiết bị thấp, chất lượng sản phẩm kém nên gặp khó khăn trong tiêu thụ và cạnh tranh sản phẩm trên thị trường. Điều này nói nên tình hình tài chính của các các doanh nghiệp là không lành mạnh. Mặt khác việc cấp tín dụng cho vay đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, vấn đề này xuất phát từ việc ngân hàng chưa tìm ra một hệ thống các kỹ thuật cho vay thích hợp với các doanh nghiệp.
    Một số nguyên tắc để ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp là sự tín nhiệm của ngân hàng đối với doanh nghiệp đó, ở sự tin tưởng sẽ thu hồi lại được  vốn và lãi đúng hạn. Tuy nhiên để đánh giá một doanh nghiệp có đủ tín nhiệm hay không còn phụ thuộc vào việc ngân hàng thu nhập được lượng thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay một thực trạng cần được khắc phục ở hầu hết các ngân hàng là thông tin về khách hàng thiếu đầy đủ làm cho các doanh nghiệp có tình hình tài chính tồi tệ cũng được cấp phép cho vay. Gây ra tình trạng ngân hàng không thu hồi lại được vốn. Các ngân hàng  là trung tâm tiền tệ, là nơi trung gian để người thừa vốn đến gửi và những người thiếu vốn đến vay. Đây là một nguồn vốn rất đáng quý cho các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay. Nhưng ta thấy trong hệ thống ngân hàng còn có nhiều bất cập: quá cửa quyền, thiếu trách nhiệm nên gây ra không ít hiệu quả nặng nề mà nhà nước là người hứng chịu.
    Mấy năm gần đây hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới vấn đề vay tín dụng có dễ dàng hơn nếu có đầy đủ giấy phép hợp lệ. Tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội trong sản xuất kinh doanh.
    Cổ phần hoá doanh nghiệp là vấn đề huy động vốn rất hợp lý hiện nay. Khi ta cổ phần hoá doanh nghiệp chúng ta huy động được nguồn vốn trong dân cư mà vẫn duy trì sự chi phối của nhà nước ở mức độ cần thiết.
    Hiện nay chúng ta đã có thị trường chứng khoán, thông qua thị trường chứng khoán này chúng ta có một điều kiện rất thuận lợi để mua bán, những loại hàng hoá đặc biệt - đó là chứng khoán. Chứng khoán hiện nay rất đa dạng: cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty. Thị trường chứng khoán là phương thức tài trợ trực tiếp (gửi tiết kiệm vào các định chế tài chinhs là tài trợ gián tiếp) để người có vốn đầu tư thẳng cho người có nhu cầu. Nhờ có thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu trái phiếu dễ dàng, khi cần tăng vốn hoặc cần vốn thời gian dài đề đổi các máy móc thiết bị. Thông qua giá cả chứng khoán của mình trên thị trường sẽ giúp doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn, giá trị doanh nghiệp được định giá liên tục. Doanh nghiệp sẽ cung cấp chứng khoán cho thị trường chứng khoán  và thị trường cung cấp vốn dài hạn cho doanh nghiệp. Một vấn đề khác đối với doanh nghiệp là phải nâng cao quản lý đầu tư, khai thác đầu tư hiện có và hiệu quả trong đầu tư.
    Ngoài các nguồn vốn ở trên các doanh nghiệp của chúng ta có một phương thức tạo vốn mới đó là phát hành trái phiếu của công ty. Đây là một khoản vay nhưng là vay của công chúng, nguồn vốn này có đặc điểm là phí tổn nợ vay có giới hạn (lợi tức trái phiếu thường thấp), cổ đông không bị chia quyền, nợ vay được xem như chi phí trừ thuế (giống như vay ngân hàng). Tuy nhiên lợi tức trái phiếu cũng là một định phí (lỗ cùng phải trả cho trái chủ), có thời hạn do công ty phải dự trù nguồn vốn để hoàn trả. Tại Việt Nam nguồn vốn này chưa thấy xuất hiện rộng rãi (trừ vài công ty làm thí điểm).
    Các doanh nghiệp của tư hiện nay có một hình thức tạo vốn và kỹ thuật khác là chúng ta liên doanh với các công ty nước ngoài. ở đây chúng ta liên doanh toàn phần từng phần. Liên doanh toàn phần là 100% vốn của nước ngoài, liên doanh từng phần là nước ngoài góp một khoản chúng ta góp một khoản. Khoản chúng ta góp hiện nay chủ yếu là đất đai sử dụng.
    Cách tạo vốn đầu tư này có rất nhiều cái lợi, nhưng nó cũng có cái hại. Chúng ta nói đến cái lợi là: người nước ngoài đem vốn vào đầu tư để  phát triển kinh tế ở Việt Nam làm cho kinh tế của ta phát triển bên cạnh đó người ta cũng đem vào nước ta các tiến bộ kỹ thuật.
    Nguồn vốn của các doanh nghiệp có được còn từ một nguồn khác nữa là các  doanh nghiệp nhận được từ quỹ hỗ trợ phát triển  của liên hợp quốc, của các tổ chức khác...
    Tóm lại, nguồn vốn của các doanh nghiệp có từ nhiều hướng khác nhau. Vấn đề hiện nay là các doanh nghiệp phải quản lý như thế nào để sản xuất kinh doanh tốt dựa trên nguồn vốn ấy.

    4. Thực trạng việc quản lý doanh nghiệp ở nước ta trong nền kinh tế thị trường.
    Quản lý doanh nghiệp của chúng ta hiện nay có rất nhiều bất cập. Bên cạnh các doanh nghiệp chuyển đổi cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới thì vẫn còn lại một số không ít các doanh nghiệp vẫn còn giữ vững cơ chế quản lý cũ quan liêu bao cấp.
    Xét về mặt tổng thể các doanh nghiệp của ta đã đổi mới hoàn toàn về công tác quản lý cả quản lý tài chính, quản lý lao độngm, quản lý sản xuất.
    Đầu tiên chúng ta xét về công tác quản lý tài chính của các doanh nghiệp. Đây là vấn đề then chốt cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
    Ta thấy tình trạng quản lý các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay vừa buông lỏng, vừa cứng nhắc. Trong các doanh nghiệp nhà nước ta thấy có một hiện tượng, giới hạn trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước là không rõ ràng nên mọi thua lỗ thất bại trong kinh doanh rốt cuộc vẫn do nhà nước gánh chịu. Các doanh nghiệp có tài sản là khá lớn nhưng do công tác quản lý lỏng lẻo nên bị sử dụng biến tướng, bị xà xẻo, thất thoát khá nhiều. Có sự tuỳ tiện trong quản lý và hạch toán ở các doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế khoán biến thành cơ cấu khoán trắng đã làm nhiều tổ chức doanh nghiệp trở thành “vỏ quốc doanh ruột tư nhân”. Nhiều tổ chức quốc doanh giao vốn cho một nhóm cán bộ quản lý thực hiện việc buôn bán riêng mặc cho đơn vị cơ sở trực thuộc phải tự lo lấy cuộc sống của mình. Tính trong hai sổ sách vẫn còn khá phổ biến. Ta thấy, trên danh nghĩa nhà nước vẫn là chủ sở hữu lớn nhưng không phải là ông chủ thực sự; chưa có sự phân biệt rành mạch giữa sở hữu và kinh doanh. Cơ chế quản lý chưa phù hợp với thị trường và chưa tạo điều kiện để triển khai các chủ trương quan trọng như đa dạng hoá loại hình sở hữu các doanh nghiệp nhà nước.
    Xét về thực lực và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cho đến nay còn có một số ý kiến đánh giá khác nhau. Có người cho rằng: Tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp rất yếu kém, hiệu quả thấp, triển vọng phát triển khó khăn. Có ý kiến khác cho rằng tuy một số doanh nghiệp có biểu hiện yếu kém nhưng vẫn có những doanh nghiệp rất mạnh làm ăn hiệu quả và phát triển tốt trong cơ chế thị trường. Mỗi một ý kiến nhận xét đều dựa trên một số căn cứ nào đó. Song phải thừa nhận rằng trong nền kinh tế của chúng ta đang nổi lên vấn đề cấp bách về tài chính và các yếu kém về quản lý. Thực trạng về nguồn vốn cũng như công tác quản lý nguồn vốn đó hiện nay là:
    Quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện nay. Trong số 5800 doanh nghiệp được thống kê, các doanh nghiệp nhà nước do trung ương quản lý có tổng số vốn kinh doanh vào khoảng 50.700 tỷ đồng. Các doanh nghiệp địa phương hiện nay đang sử dụng vốn khoảng 17.800 tỷ đồng. Do công tác quản lý của ta nên số vốn ấy nó không được sử dụng hoàn toàn với mục đích sản xuất kinh doanh mà nó còn bị thất thoát đi một phần rất lớn. Số bị chiếm dụng một cách trái phép khá nhiều. Một bước đổi mới đáng chú ý là việc cải tổ các doanh nghiệp theo quyết định số 90 - TTg, quyết định 91 - TTg ngày 7 - 3 - 1994 và quyết định số 185 - TTg ngày 28 - 3 - 1996 của Thủ tướng Chính phủ và tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thành lập các tập đoàn kinh doanh. Nhằm khắc  phục tình trạng manh mún, quy mô nhỏ bé của doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã cho phép thành lập và thành lập lại các tổng công ty hoạt động trên một số lĩnh vực nhất định. Hiện nay có 74 tổng công ty mạnh giữ vị trí chủ đạo trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Trong đó 18 tổng công ty được thành lập theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Mặc dù có những chuyển biến ban đầu là rất khả quan nhưng nó vẫn còn bộc lộ một số dấu hiệu bất lợi và những hạn chế đối với các tổng công ty được thành lập lại. Sự phối hợp sự liên kết giữa các thành viên chưa tạo nên một sức mạnh to lớn, công tác quản lý rời rạc. Đội ngũ quản lý chưa đáp ứng đủ năng lực, chưa theo kịp sự thay đổi của môi trường kinh doanh và chưa đáp ứng được yêu cầu của tổng công ty lớn. Khi quy mô của Tổng công ty tăng lên thì tính phức tạp của quản lý thường tăng lên gấp bội, đặc biệt là quản lý tài chính.
    Các doanh nghiệp tư nhân của ta sau mấy năm gần đây phát triển mạnh mẽ. Tỷ trọng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên trong khi đó các doanh nghiệp quốc doanh là giảm xuống. Khác với doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp tư nhân có một chế độ quản lý rất hiệu quả, đó chính là dựa vào mục đích của các doanh nghiệp tư nhân, họ làm ra bao nhiêu thì họ hưởng, lợi nhuận kinh doanh sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động đến quyền lợi của tất cả, họ phải gánh chịu mọi việc, không như các doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước bảo trợ, gánh chịu trách nhiệm. Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp tư nhân có cách quản lý riêng của mình đã đem lại một hiệu quả rất cao. Đứng trước nhu cầu về vốn rất lớn của mình, trước sự khó khăn của vốn vay, vốn tài trợ các doanh nghiệp phải lựa chọn một phương thức quản lý hợp nguồn vốn tự có vốn vay để làm sao mà từ nguồn vốn đó nó cho họ hiệu quả, lợi nhuận cao nhất.
    Hiện nay cả nước có 25000 doanh nghiệp tư nhân có giấy phép hoạt động với số vốn khoảng 10000 tỷ, tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam Đà Nẵng. Hầu hết các doanh nghiệp này hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ, chế biến lương thực thực phẩm. Vốn của các doanh nghiệp tư nhân là rất nhỏ, chủ yếu là vốn tự có. Bên cạnh đó nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp này là nguồn vốn vay ngân hàng.
    Quản lý tài chính mà chủ yếu là quản lý đối với các doanh nghiệp hiện nay không phải là dễ dàng, làm sao để nguồn vốn của các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là rất khó, điều này nó đòi hỏi các cán bộ quản lý, các chủ  cơ sở phải có các phương hướng biện pháp thích hợp.
    Quản lý doanh nghiệp không phải chỉ có quản lý vốn mà còn phải quản lý lao động quản lý sản xuất.
    Đối với quản lý sản xuất của các doanh nghiệp. Trong mấy năm gần đây, chiều hướng tiêu dùng gia tăng, thu nhập của người dân tăng lên. Nhu cầu đòi hỏi khác xưa, do đó công việc của các nhà quản lý sản xuất là phải tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng từ đó mà sản xuất  ra các mặt hàng phù hợp. Hiện nay ta bắt gặp một tình trạng lơi lỏng quản lý sản xuất dẫn đến việc sản xuất tràn lan, hoà giải hàng thật lẫn lộn, tràn ngập trên thị trường. Hiệu quả quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nước là rất kém, kém hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân. Ta thấy sản phẩm các doanh nghiệp nhà nước sản xuất ra là cạnh tranh yếu trên thị trường, hầu như là mẫu mã xấu, lạc hậu. Các doanh nghiệp tư nhân tỏ ra năng động nắm bắt lại thị trường nhanh nhạy.
    Một vấn đề dễ nhận thấy hiện nay kỹ thuật của chúng ta kém thế giới từ 1 - 2 thế hệ, nên năng suất, chất lượng kém. Do đó  đòi hỏi nhà quản lý phải tìm cách nào để hiện đại hoá dần công nghệ sản xuất.
    Đối với quản lý lao động. Thực trạng hiện nay về lao động của chúng ta là rất yếu kém về trình độ. Số lượng lao động có tay nghề cao trong các cơ sở sản xuất là ít. Các doanh nghiệp quản lý lao động hiện nay khác xưa kia. Ta thấy trước kia chúng ta quản lý lao động chung chung, người lao động đi làm việc không có cảm giác trách nhiệm, tận tụy với công việc, nhưng hiện nay do chuyển đổi cơ chế người lao động có hưng phấn làm viên hơn, có trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn. Chúng ta đang quản lý lực lượng lao động theo hiệu lực, theo thời gian làm việc và theo sản phẩm họ làm ra. Qua đó chúng ta có một mức lương chính xác cho mỗi người. Quản lý lao động quản lý một thực thể sinh học sống do đó chúng ta phải có chính sách, biện pháp sao cho phù hợp.
    Tình trạng quản lý doanh nghiệp hiện nay của chúng ta nói chung là rất yếu kém, do đó nó ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp hoạt động không kém hiệu quả. Vì vậy chúng ta phải có các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy  nền kinh tế đa của đang phát triển.

    5. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp.
    + Đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý từ trên xuống dưới, chỉ số thông qua đổi mới chúng ta mới nó giúp chúng ta làm việc tốt hơn, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Thông qua đổi mới chúng ta xóa bỏ được cơ chế quản lý cũ, quan liêu, bao cấp chỉ biết đến các chính sách, mệnh lệnh mà không có các biện pháp khuyến khích lao động, khuyến khích phát triển.
    + Nâng cao năng lực của các cán bộ quản lý. Chúng ta phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới cho họ, chỉ có làm như vậy mới đáp ứng được xu thế của thời đại. Một cán bộ quản lý có năng lực, có tri thức là một điều kiện không thể thiếu được cho các doanh nghiệp.
    + Cần nghiên cứu chuyển các tổ chức quốc doanh sang chế độ trách  nhiệm hữu hạn, lấy vốn pháp định làm cơ sở cho việc xử lý các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp cũng như giưã các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
    + Các doanh nghiệp cần phải có một chế độ quản lý tài chính công khai, có sổ sách ghi chép, tránh tình trạng lập các quỹ đen chi tiêu không đúng mục đích của các cán bộ quản lý.
    + Tránh tình trạng hai sổ sách trong công tác kế toán, chỉ giao sự quản lý cho các cơ quan chuyên môn phụ trách, đảm nhiệm, các cơ quan cấp trên chỉ định hướng xem xét kế hoạch phát triển.
    + Quản lý sản xuất cần phải thấy  rõ được  số lượng, khối lượng và chất lượng của sản phẩm, tránh tình trạng sản xuất tràn lan không tiêu thụ được sản phẩm.
    + Sản xuất cần năng động, bắt kịp nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
    + Quản lý, đầu tư nguồn vốn có hiệu quả, có mục đích tránh tình trạng đầu tư không trọng điểm, không đem lại kết quả gây ra thất thoát ngân sách cho nhà nước.
    + Quản lý người lao động  là quản lý một thực thế sinh học chứ không phải là quản lý một cái máy chúng ta phải có các chính sách kinh tế đề kích thích người lao động làm việc tốt hơn hiệu quả hơn.

    III/ KẾT LUẬN
    Tư bản luôn luôn vận động qua 3 giai đoạn khác nhau qua mỗi giai đoạn tư bản lại tồn tại dưới một hình thức và làm trọn một chức năng nhất định. ở giai đoạn I tư bản tồn tại dưới hình thức tiền tệ và làm chức năng mua hàng hoá. ở giai đoạn II tư bản tồn tại dưới hình thức là tư bản sản xuất mà chức năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư còn ở giai đoạn III tư bản tồn tại dưới hình thức là tư bản hàng hoá chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Các giai đoạn này diễn ra một cách liên tục không ngắt quãng. Chính từ quá trình vận động này ta rút ra được sự tuần hoàn của tư bản, sự tuần hoàn của tư bản nếu xem xét là một quá trình đổi mới và lặp đi lặp lại chứ không phải là một quá trình cô lập riêng lẻ thì gọi chu chuyển tư bản.
    Khi nghiên cứu về quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản nó có một ý nghĩa to lớn trong việc quản lý doanh nghiệp của nước ta. Thông qua đó chúng ta sẽ có những chủ trương, đường lối, chính sách tốt hơn để quản lý vốn, quản lý lao động, quản lý sản xuất của các doanh nghiệp. Đặc biệt khi chúng ta đang chuyển đổi từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý mới đó là cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta phải nắm rõ được quy luật vận động của tư bản để chúng ta quản lý tốt hơn.
    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Tư bản Quyển 2 - Tập 2
    2. Giáo trình Kinh tế chính trị
    3. Các quyển tạp chí
    - Nghiên cứu và phát triển
    - Phát triển kinh tế
    - Tạp chí xây dựng
    - Tạp chí ngân hàng
    4. Quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.



    MỤC LỤC

    Trang
    I/ Lời mở đầu 1
    II/ Nội dung chính 2
    A. Cơ sở lý luận 2
    1. Khái niệm chung về tư bản 2
    a. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản 2
    b. Quá trình sản xuất ra GTTD 5
    c. Khái niệm tư bản 5
    2. Tuần hoàn và chu chuyển tư bản 7
    a. Tuần hoàn tư bản ba hình thức vận động của tư bản 7
    b. Chu chuyển của tư bản 12
    B. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi chuyển ...................................... 20
    1. Cơ chế thị trường 20
    2. Vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường 21
    3. Sự hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường 24
    a. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp 24
    b. Vấn đề về  vốn ở doanh nghiệp nước ta hiện nay 30
    4. Thực trạng việc quản lý doanh nghiệp ở nước ta trong nền kinh tế thị trường 33
    5. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp 36
    III/ Kết luận  38
    Tài liệu tham khảo 39



     



    Bạn muốn xem thêm!