Sự vận dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước hiện nay
A – PHẦN MỞ ĐẦU
Từ
khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất cho đến nay đã trải qua năm phương
thức sản xuất đó là : cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô nệ, xã hội phong kiến,
tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Qua mỗi thời kỳ tư duy và nhận thức của
con người cũng không dừng lại ở một chỗ, mà theo thời gian tư duy của con người
ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Chính sự thay đổi về tư duy và nhận thức đã
kéo theo những sự thay đổi về sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như cơ
sơ sản xuất.
Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt với những kỹ thuật lạc
hậu thì nay với sự phát triển của khoa hoc kỹ thuật đã đạt tới đỉnh cao dẫn tới
sự phát triển vượt bậc trình độ sản xuất, không ít các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu đã đổ sức, bỏ công cho các vấn đề này, cụ thể là nhận thức con người,
trong đó có 3 trường phái triết học trong lịch sử là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm và trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất
của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất
xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
được Mác và Ăng Ghen vươn nên đỉnh cao trí tuệ nhân loại không chỉ trên phương
diện triết học mà cả chinh trị, kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới
những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì
nhận thức của hai ông về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Nghiên cứu về sự thống nhất biện chứng
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được
một nhận thức về sản xuất xã hội. Đồng thời giúp chúng ta mở mang được nhiều lĩnh
vực về kinh tế. Thấy được vị trí cũng như ý nghĩa của nó. Đây cũng chính là lý
do khiến cho một sinh viên học về lĩnh vực
kinh tế như Em chọn đề tài “sự vận dung quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của đảng ta trong đường
lối đổi mới đất nước hiện nay”
B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUY
LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
I. ĐÔI NÉT VỀ
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư
liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người
lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu
sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Hay nói cách khác lực lượng
sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, bao gồm người
lao động và tư liệu sản xuất :
+ Tư liệu
sản xuất gồm có : đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động
là những cái mà con người tác động vào để cải tạo chúng thành các sản phẩm phục
vụ cho đời sống của mình như đất đai, tài nguyên, khoán sản; hoặc những đối tượng
đã trải qua quá trình lao động của con người, nhưng chưa thành sản phẩm cuối cùng
(nguyên vật liệu). Còn tư liệu lao động gồm: công cụ lao động là những cái con
người dùng để truyền sức lao động vào đối tượng lao động để biến đổi chúng thành
những sản phẩm lao động nhất định và những phương tiện vật liệu khác phục vụ quá
trình sản xuất như nhà xưởng, bến bãi… Trong các yếu tố trên thì công cụ lao động
được coi là yếu tố quan trọng nhất, linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất.
+ Người
lao động : đây được coi là yếu
tố đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình sản xuất, người lao động dùng trí
thông minh cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm lao động luôn luôn không ngừng
biến đổi công cụ lao động để đạt năng suất lao động cao nhất và ít hao tổn sức
lực nhất.
Ở nước
ta từ trước đến nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa
học kỹ thuật còn kém phát triển. Hiện thời đại chúng ta đang ở trong tình trạng
kế thừa những lực lượng sản xuất, vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu với trình độ chung
của thế giới, hơn nữa trong thời gian khá dài những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát
huy tác dụng kém. Bởi vậy đại hội lần thứ VI của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ là phải:
“giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của
đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất”. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, đang chứng
kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta
lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có, mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do
thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để phát huy nguồn nhân lực bên trong.
2. Quan hệ sản xuất.
Quan
hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất của xã hội. Trong quá trình sản xuất con người phải có những
quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các
mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật rồi. Nhìn tổng
thể quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
+ Chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa con người đối với tư liệu sản
xuất.
+ Các
chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với
người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hóa
và hợp tác hoá lao động hay quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
+ Chế
độ phân phối sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu
chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để cho chúng không ngừng
được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phục lợi người lao động,
đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong
cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất thì vấn đề quan trọng mà Đại hội Đảng lần
thứ VI đã nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ
quản lý và chế độ phân phối không nên coi trong một mặt nào cả. Thực tế lịch sử
đã cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh
tế là nhằm đảm bảo cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận
lợi và đời sống của con người cũng được cải thiện và xét riêng trong phạm vi một
quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của
quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định
thì quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản
xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục
vụ đắc lực cho sử tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế – xã hội mới.
Trong
lịch sử mỗi hình thái kinh tế xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị điển
hình còn tồn tại những quan hệ phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ.
Tất cả đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những
giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng khác nhau, các ngành khác nhau của
một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như Mác nhận xét
: “Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó chưa được chín muồi ...” phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài
mới có thể tạo ra được điều kiện vật chất trên.
3. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản
Bắt
nguồn từ nhận thức về qui luật phát triển của xã hội loài người là một quá trình
lịch sủ tự nhiên, đồng thời xuất phát từ những điều kiện mới của thực tế lịch sử
hiện nay có thể khẳng định các nước chậm phát triển cũng có khả năng tiến lên
CNXH tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của mình. Khả năng quá độ lên CNXH này thường
đợc gọi là con đường quá độ gián tiếp lên CNXH, con đường bỏ qua giai đoạn phát
triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường phát triển theo khả năng này còn được
gọi là con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo kinh nghiệm thực tế của
Lênin đây là một con đường khá lâu dài phải trải qua nhiều bước trung gian, phát
triển qua đấu tranh giai cấp rất phức tạo.
Sự đi lên phải có ủng hộ và giúp đỡ bên ngoài kể cả cơ sở sản xuất. Trước
hết trong nước đó cần có một Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, một đảng có
quan hệ mật thiết "sống còn" với dân. Từ đó tổ chức áp dụng lãnh đạo
trong đó có cả vận dụng qui luật sản xuất phù hợp với nước đó một cách tích cực
để không ngừng tiến bước.
II. QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay
phù hợp.
Như
mác đã nói “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống cuả mình, con người ta có những
quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản
xuất, những quy luật này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất của họ...” người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng
về “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”.
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là
những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất, từ đó hình thành
những mối quan hệ chủ yếu, cơ bản là mối liên hệ giữa tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa giữa hai yếu tố cơ bản này là gì ?
phù hợp hay không phù hợp ? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý
nghĩa sau :
+ Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối
lập
+ Phù hợp còn là một xu hướng mà những dao động không cân
bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm
thời và sự không cân bằng la tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động
và phát triển. Vì thế có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là là quy luật mâu thuẫn,sự phù hợp giữa chúng
chỉ là yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn mới đủ khả năng
vạch ra động lực của sự phát triển, mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của
quy luật kinh tế.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lợc lượng sản xuất.
Tất
cả chúng ta đều biết, quan hệ sản và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động
qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy mạnh quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối
phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc sai lầm của tư tưởng
này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất
chấp quy luật khách quan. Về mặt phương pháp luật, đó là chủ nghĩa duy vật siêu
hình, quá lạm dụng mối quan hệ ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “nhà nước chuyên chính
vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất”. Nhưng khi thực hiện người ta quên rằng sự
"chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện con người không thể tự
do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại
quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của
lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết
kịp thời nhưng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực
lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: Lực lượng
sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn luôn biến đổi trong sản xuất con người
muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến
công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định
sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất không thích ứng
với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại
lực lượng sản xuất và ngược laị.
+ Sự
tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Quan hệ sản
xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở
thành những cơ sở và nhưng thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối
với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất
dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ
sản xuất có thể tác động mãnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quy đụnh
muc đích của sản xuất quy định hệ thống
tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và
phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. do đó nó ảnh hưởng tới
thái độ tất cả quần chúng lao động . Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích
hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
vào sản xuất hợp tác phân công lao đông quốc tế.
CHƯƠNG II
SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TA TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
Từ năm 1975 sau khi giành được độc lập và thống nhất đất
nước chúng ta đã đi lên xã hội chủ nghĩa với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm
năng mọi mặt còn non trẻ, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, và
do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật
chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do đề cao vai trò của quan hệ sản xuất
do quan niệm không đúng về mối quan hệ sản xuất, và quan hệ khác, do quên mất điều
cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa. Đồng nhất chế độ công hưu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn giữa hợp tác hoá
và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước có tính quy luật trên con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền
kinh tế quốc dân. Và xét về thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội
chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân
và tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những phân tích trên. Trên con đường tìm tòi
lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện tượng trái với
ý muốn chủ quan của chúng ta. Có những hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống
kinh tế như quản lý kém, tham ô, tham nhũng,…, Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế – xã hội xa lạ được
áp đặt một cách chủ quan, cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát
triển. Khắc phục những mặt tiêu cực trên là cần thiết, nhưng trên thực tế chúng
ta chưa thực hiện tốt các nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục những khó
khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới và với những hình
thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phát triển
với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay
nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn bán
tự do rộng rãi, có lợi cho sự phát triển sản xuất. Cách đây không lâu các nhà báo
của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng “với một người có bằng cấp
về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế. Ông có thể đưa đất nước Việt Nam
tiến nên không” trả lời phỏng vấn Tổng bí thư khẳng định rằng “Việt Nam chúng tôi
khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải
có khả năng cầm súng và làm kinh tế giỏi ”, và Ông còn khẳng định và không chấp
nhận Việt Nam theo con đường chủ nghĩa tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản
trên đất nước Việt Nam mà vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở đòi hỏi các
bên cùng có lợi, và như vậy cho phép phát triển nền kinh tế tư bản là sáng suốt.
Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục thành phần
kinh tế tư bản tư nhân mà còn phát triên chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng
và Nhà nước. Nhưng quan trọng là phải nhận thức được vai trò thành phần kinh tế
nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông
qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ
đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể
thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế
này cần phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiên phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như
thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
Trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước và muốn đạt được thành công thì nhất thiết phải có tiềm lực về
kinh tế và con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài
ra còn phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đây là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao động lớn, cần cù, thông minh,sáng tạo
và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ lao động của chúng ta còn thô sơ. Nguy
cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh
mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trước
hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu các thành
phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp cùng với thời
cơ lớn thì cũng có rất nhiều thách thức phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, vì
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Nhưng điều đó còn ở phía trước mà
nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
giai đoạn hiên nay của nước ta.
III. HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
Thực tế từ trước đến nay đã chứng
minh rằng công nghiệp hoá – hiện đại hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của
các nước. Đối với nước ta từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu, nhanh chóng đạt tới trình độ một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hoá toàn diện và sâu sắc. Đại hội đã biểu lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng định “xây dựng nước ra thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
– kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế phù hợp, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
phải được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh”. Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thì lịch sử sản
xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến: một
mặt con người phải quan hệ với tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ
này được biểu hiển ở lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là hai mặt đối lập nhau biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành của toàn bộ lịch sử của nhân
loại thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở
hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã
hội.
Mác đã đưa ra kết luận rằng xã hội loài
người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của
lịch sử phát triển đó là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định rằng tiến bộ
xã hội là sự vận động theo đúng hướng tiến lên của các hình thái kinh tế xã hội
khác mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển của sản xuất. Rằng sự vận động của
các hình thái kinh tế – xã hội là do tác động của các quy luận khách quan. Mác
và Angen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư tưởng. Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh
tế – xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp
với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại.
Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Đảng ta đã
chỉ ra rằng công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá kết hợp những bước tiến
tuần tự về công nghiệp với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành
những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiến lên của khoa học công nghệ mới. Mặt
khác chúng ta chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận dụng theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời chúng luôn
tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ nếu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội thì việc xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp,
đưa nước ta ngày một đi lên như Đảng và nhà nước ta mong muốn.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ không thể tách rời trong đó lực lượng
sản xuất giữ vai trò quan trọng quyết định, nó là nội dung còn quan hệ sản xuất
giữ vai trò hình thức của phương thức sản xuất. Vì thế chúng ta cần phải hiểu và
vận dụng một cách tốt nhất những quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế không phải lúc nào cũng có được
sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Đặc
biệt sản xuất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều lộn xộn
trong việc nghiên cứu sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất. Nhưng nếu
chúng ta sử dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản
xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước trên con đường công
nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã chọn.
- Một
số kiến nghị
Qua
bài viết này giúp em phần nào hiểu được tình hình kinh tế nước nhà đồng thời cũng
biết được những việc mà Đảng và nhà nước ta đang làm để phát triển đất nước. Và
qua đây em có một số kiến nghị như sau:
+ Không
ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc nhanh chóng đưa những tiến bộ
khoa học của các nước đi trước và tăng cường sự giáo dục, định hướng cho người
lao động để có thể tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ.
+
Bình thường hoá quan hệ sản xuất có cách nhìn đúng đắn giữa người làm thuê với ông
chủ của mình. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng chất lượng của sản phẩm làm
ra. Quan hệ sản xuất tốt người lao động được hưởng mọi quyền lợi họ sẽ tích cực
làm việc từ đó năng xuất và chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên.
Mong rằng những kiến nghị của em có thể đóng góp một
phần nhỏ bé để cùng đất nước đi lên theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại
hoá hiện nay.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Tài liệu Lênin toàn tập – Tập 38 NXB Maxcơva 1977
2.
Góp phần hướng dẫn học tập môn triết học Mác – Lênin. Tập
2 – NXB chính trị quốc gia năm 2003
3.
Giáo trình triết học Mác – Lênin – NXB chính trị quốc gia
4.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
5.
Tạp chí cộng sản số 13 tháng 6/1996
6.
Tạp chí phát triển kinh tế
“Công nghiệp
hoá nhìn từ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”. PTS- Lưu Hà
Vi