• Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012
  • Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện

    LỜI NÓI ĐẦU
    Sắp bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của nền khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc độ nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng hoà nhập hơn vào xu thế tiến bộ đó của thế giới, với những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trang bị cho cơ sở vật chất của chúng ta ngày càng tiên tiến hơn hiện đại hơn .Nhờ có chính sách đổi mới đúng đắn ấy của nhà nước về công nghệ thông tin và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam mà hiện nay chúng ta đã có một số thiết bị điện tử được sử dụng ngày càng nhiều vào các ngành như : Phát thanh truyền hình, Bưu chính viễn thông, các viện nghiên cứu, các bệnh viện lớn, các nhà máy xí nghiệp... Chúng ta đang thừa hưởng những công nghệ hiện đại vào cuộc sống và công việc hàng ngày thì cũng tồn tại song song với chính nó là các rủi ro có thể xảy ra đối với các công nghệ đó . Chẳng hạn nếu giả sử hệ thống bưu chính viễn thông sử dụng các thiết bị điện tử mà gặp sự cố như sét đánh hoặc điều khiển sai kĩ thuật thì thiệt hại rất là to lớn vì các thiết bị này có đặc điểm là phải nhập ngoại với giá trị rất cao so với thu nhập của chúng ta . Để khắc phục những rủi ro có thể xảy ra thì bảo hiểm thiết bị điện tử ra đời như một nhu cầu tất yêú giúp các tổ chức, cơ quan, xí nghiệp... yên tâm, tin tưởng để sử dụng các thiết bị điện tử cho công việc của mình .

    Ở Việt nam, có thể coi bảo hiểm thiết bị điện tử là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ mới nhất và đây là một nghiệp vụ khá phức tạp đòi hỏi kĩ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí... Do vậy nghiên cứu nghiệp vụ này là rất cần thiết đối với những người làm công tác bảo hiểm. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn đó, nên trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện em đã chọn đề tài: “Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện
    Nội dung đề tài gồm một số phần chính như sau :
    Phần I:
    Những vấn đề lí luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử
    Phần II:
    Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện
    Phần III:
    Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
    Phần I
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ
    BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ

    A> KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
    1-Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử
    a-Khái niệm về  thiết bị điện tử
    Thiết bị điện tử là các loại thiết bị có chứa linh kiện bán dẫn và các mạch điện tử, thông thường các thiết bị  này không phải thực hiện phải thực hiện bất kỳ hoạt động cơ khí nào. Các hoạt động như truyền và lưu trữ thông tin đo lường và điều khiển, thử nghiệm, thẩm định và báo động đều do thiết bị điện tử thực hiện.Với ưu điểm là có tốc độ truyền cực nhanh và chính xác tuyệt đối, kích cỡ các linh kiện rất nhỏ, do đó chúng trở nên rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đơn giản lấy ví dụ như kĩ thuật điện tử được ứng dụng vào giải quyết vấn đề nghiêm trọng là nạn giao thông mật độ cao .Thông qua kĩ thuật máy tính, kĩ thuật điện tín và các kĩ thuật khác lắp trên ô tô và dọc đường để đạt được mục đích cải thiện tình hình an toàn giao thông và nâng cao khả năng giao thông trên đường. Hiện nay do mật độ xe cộ dày đặc mà mỗi năm Mỹ thiệt hại về kinh tế lên tới 100 tỷ đô la, số người chết do tai nạn giao thông mỗi năm tới 41.000 người và 5 triệu người bị thương.
    Các thiết bị điện tử cho phép tự động hoá trong các quả trình công nghệ và kiểm tra sản phẩm ở các xí nghiệp dệt ,nhà máy chế tạo mô tơ, hoá chất trong hầm mỏ, nhà máy đóng tàu. Các thiết bị điện tử trực tiếp làm tăng năng xuất lao động ,nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện làm việc. Chẳng hạn, trong việc học ngoại ngữ chỉ cần dùng máy vi tính và hệ thống loa âm thanh ta có thể nghe chính xác như người nước ngoài nói mà không phải có giáo viên trực tiếp dạy .
    Ta có thể áp dụng những thành tựu của điện tử trong những thiết bị sử dụng hàng ngày như vô tuyến truyền hình, máy ghi âm máy thu thanh. Ngoài ra do sử dụng cáp quang và hệ thống vệ tinh mà khả năng liên lạc toàn cầu sẽ được thực hiện một cách dễ dàng khả năng lựa chọn bất cứ chương trình vô tuyến và radio hoậc thậm chí thực hiện chương trình riêng từ băng ghi hoặc phím, khả năng thu tại nhà những bản in như; tin tức báo chí, những tư liệu khác nhau từ trung tâm tính toán .
    Để tìm hiểu một cách chi tiết về thiết bị điện tử phục vụ cho đề tài này, có thể phân loại thiết bị điện tử ra làm các loại như sau:
    - Các thiết bị EDP (Electronic Data processing) và các thiết bị điện tử dùng trong văn phòng (máy vi tính, máy tính trung tâm), các thiết bị ngoại vi như máy in, máy đếm, máy photocopy, máy chiếu...
    -Thiết bị viễn thông: thiết bị  điện thoạI (ở các tổng đài điện tử), thiết bị truyền xa (hệ thống telex,selex .. .)
    - Thiết bị thu thanh truyền hình: các thiết bị rada, trạm vệ tinh mặt đất, các bộ kính thiên văn..., camêra truyền hình, thiết bị ghi hình, thiết bị tạo hình, phòng ghi và sao video.
     - Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải: thiết bị đèn chiếu, đèn pha, đèn huỳnh quang, các hệ thống tín hiệu, các hệ thống vô tuyến điện thoại và thiết bị hàng hải bằng điện tử .
    - Thiết bị y tế: thiết bị tia X quang dùng cho chẩn đoán, thiết bị bức xạ đẳng hướng dùng để trị liệu, thiết bị phân tích dùng trong y học ...
    - Các bộ truyền dẫn và phát tín hiệu: các hệ thống báo động ,hệ thống đồng hồ đo, máy dò tìm và các hệ thống liên lạc bên trong.
    Vì phạm vi bài viết có hạn, nên em chỉ đi sâu vào các thiết bị mà thực tế công ty Bảo hiểm Bưu điện (gọi tắt là PTI) đã triển khai về nghiệp vụ. Đó là  thiết bị EDP, thiết bị viễn thông, thiết bị thu phát thanh, truyền hình.
    b, Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử :
    *Bước vào thế kỉ 21, sự phát triển của khoa học kĩ thuật sẽ là vấn đề then chốt  cho sự đI lên của thế giới văn minh. Các máy móc thiết bị đa số liên quan đến điện tử, từ các máy tính cá nhân cho đến những vệ tinh đang bay quanh trái đất của chúng ta. Do đó đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và có hiệu quả .
    Các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm thiết bị điện tử  cũng rất đa dạng, từ các rủi ro thiên tai: mưa, bão, lụt ... cho tới các rủi ro do con người gây ra như: sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người điều khiển, hành động phá hoại ... chỉ cần một sai sót nhỏ, có thể rất nhỏ xảy ra cũng có thể dẫn đến nhứng hậu quả to lớn không thể lường trước được . Nó gây tác hại không chỉ cho một ngành hay một khu vực kinh tế quốc đân mà còn cho nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nó cũng có thể làm chậm hẳn lại sự tiến triển của một ngành khoa học. Đặc biệt ngày nay nhiều công trình, máy móc, thiết bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao, có giá trị rất lớn. Nếu tai nạn xảy ra có thể dẫn tới thiệt hại to lớn, thậm chí có thể dẫn đến phá sản.
    *Cũng giống như loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm thiết bị điện tử nhằm ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế trong trường hợp chẳng may gặp các rủi ro nói trên. Với việc thu phí bảo hiểm của nhiều tổ chức kinh tế và cá nhân có liên quan trong xã hội để lập qũi bảo hiểm và quan hệ tái bảo hiểm có đủ khả năng bồi thường ngay tổn thất cho người được bảo hiểm, cho dù tổn thất có lớn tới mức nào đi chăng nữa, giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả tổn thất, khôi phục sản xuất kinh doanh và đời sống.
    Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay,  mỗi tổ chức, đơn vị, xí nghiệp đều phảI tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Với cơ sở vật chất sẵn có của mình, họ phải lo liệu làm sao sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả cao nhất. Cơ chế mới đó vừa thúc đẩy sự phát triển sản xuất của các xí nghiệp, mặt khác đòi hỏi các xí nghiệp phải tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh vì với việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, các xí nghiệp sẽ không được Nhà nước trợ cấp trong các trường hợp làm ăn không có hiệu quả hoặc không may gặp phải rủi ro làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Điều đó, buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Nếu tham gia bảo hiểm, trong trường hợp gặp phải các rủi ro gây ra thiệt hại tới tài sản, tiền vốn của họ thì bảo hiểm sẽ bồi thường kịp thời các tổn thất đó, giúp người được bảo hiểm giải quyết ngay khó khăn về mặt tài chính, không cần xin ngân sách nhà nước trợ cấp.   Căn cứ vào điều kiện tài chính của mình, chỉ với một khoản phí bảo hiểm rất nhỏ trả cho người bảo hiểm, khi gặp tổn thất người được bảo hiểm sẽ nhận được khoản tiền bồi thường của người bảo hiểm và sẽ chủ động nhanh chóng khôI phục ,đưa sản xuất kinh doanh trở lại bình thường .
    Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm thiết bị điện tử Người bảo hiểm cùng với các ngành, các cơ quan hữu quan khác phối hợp tiến hành công tác đè phòng, hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra thiệt hại đối với tài sản, con người. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm thiết bị điện tử, các biện pháp đề phòng, chữa cháy, kiểm tra, giám định các thiết bị máy móc, đóng vai trò quan trọng. Theo thông lệ, trước khi tiến hành bảo hiểm, người bảo hiểm phải theo rõi, kiểm tra và đánh giá mức độ rủi ro của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ đóng góp kịp thời cho người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để hạn chế kha năng xảy ra các rủi ro gây nguy hại cho tài sản được bảo hiểm.
    c,Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử
    Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic  Equipment Insurance-EEI) có một số ưu điểm so với các loại hình bảo hiểm khác như :
    *Một là, EEI đưa ra khái niệm bảo hiểm rộng rãi nhất trong ngành bảo hiểm. Dựa trên đơn bảo hiểm mọi rủi ro với rất ít các điều kiện loại trừ ,nó bảo đảm việc bồi thường sau khi tổn thất hay hư hỏng, thậm chí cả trong các trường hợp không đáng quan tâm hay không quan trọng đối với tài sản khác ví dụ như việc vận hành không có chuyên môn, dao động điện áp, ám khói ,ẩm ướt và nổ đèn chân không .Tuy nhiên ,các hiểm hoạ ấy đã gây ra một rủi ro rất nghiêm trọng cho thiết bị điện tử có độ nhạy cảm về tần số và tính khốc liệt. Cũng như vậy, một nguyên nhân tương đối nhỏ nhưng cũng có thể ảnh hưởng lớn về tài chính đối với tính liên tục của hoạt động kinh doanh bởi vì các hoạt động này có thể hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của “trái tim" thiết bị điện tử .
    *Hai là, điều khoản tiêu chuẩn trong bảo hiểm thiết bị điện tử có đưa ra điều kiện hoàn trả tiền trên cơ sở giá trị thay thế mới. Điều này đã đặt người được bảo hiểm vào một vị trí sẵn có nguồn tiền đầy đủ để thay thế ngay lập tức và không có sự khấu trừ thông thường theo điều kiện “mới thay cũ" .
    Ba là, Bảo hiểm thiết bị điện tử mở rộng cả với thiệt hại mọi lĩnh vực phần mềm và sự ứng dụng của nó. Ngày nay ,dữ liệu gốc và dữ liệu giao dịch được lưu trữ vào máy tính là nguồn thông tin phổ biến của mỗi công ty do đó cả phần mềm và dữ liệu là những tài sản rất có giá trị đối với mọi doanh nghiệp. Sự tồn tại và tính chính xác của chúng bị đe doạ bởi rất nhiều rủi  và  hiểm hoạ đa dạng khi so sánh với chính thiết bị đó .
    Các hoạt động có thể bị gián đoạn cho tới khi việc phục hồi đầy đủ thông tin  được tiến hành.
    Bốn là, để chiều theo ý khách hàng, bảo hiểm thiết bị điện tử có thể thay đổi phù hợp với từng nhu cầu thông qua các bản sửa đổi bổ xung và cơ cấu định giá rủi ro.
    2. Lịch sử phát triển bảo hiểm thiết bị điện tử
    a) Khái quát về lịch sử bảo hiểm kĩ thuật
    So với các loại hình bảo hiểm khác như: Bảo hiểm hàng hải ,bảo hiểm cháy... thì bảo hiểm kĩ thuật ra đời chậm hơn. Có thể nói rằng: Bảo hiểm kĩ thuật ra đời cùng với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và chính sự phát triển  của khoa học kĩ thuật là động lực thúc đẩy sự lớn mạnh không ngừng của lĩnh vực bảo hiểm này. Ta có thể đưa ra một vàI số liệu để so sánh như sau:
                           - Bảo hiểm cháy ra đời từ năm 1667
                         - Bảo hiểm hàng hải ra đời vào năm1687
                         - Đơn bảo hiểm kĩ thuật đầu tiên xuất hiện vào năm 1859
    Đó là đơn bảo hiểm về máy móc và năm 1859 xuất hiện đơn bảo hiểm đầu tiên cho nồi hơi.
    Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác, nhưng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong thế kỷ 20 này, bảo hiểm kĩ thuật cũng đã tiến được những bước dài quan trọng và trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay. Trong năm 1972, tổng số phí BHKT tại CHLB Đức chỉ đạt 567 triệu DM, nhưng năm 1981 đã tăng lên tới 1294 triệu DM
    BHKT hiện nay đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy móc trong các xí nghiệp sản xuất ,các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong các phòng thí nghiệp cho tới việc bảo hiểm cho công trình xây lắp khổng lồ, các công tá lắp ráp máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả con tàu vũ trụ... công ty Munich Re, một công ty tái bảo hiểm đứng đầu thế giới,là một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này cùng với các công ty khác trên thị trường bảo hiểm Lon don -trung tâm bảo hiểm  thế giới.
    b) Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thiết bị điện tử
    Bảo hiểm thiết bị điện tử là một nghiệp vụ bảo hiểm tuy ra đời muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác nhưng đã phát triển rất nhanh và chiếm một tỷ lệ lớn trong doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật. Gọi là ra đời muộn nhưng nhìn lại lịch sử phát triển của loại hình bảo hiểm này, chúng ta thấy nó cũng đã có trên 70 năm phát triển.
    Từ những năm 20 của thế kỉ này đã xuất hiện những hợp đồng bảo hiểm thiết bị điện tử như là những phần bổ xung cho các hợp đồng thuê mướn và bảo dưỡng thiết bị .Vào năm 1921 công ty chuyên về bảo hiểm thiết bị điện tử đầu tiên trên thế giới đã được thành lập .
    Với nguồn gốc của nó trong những năm 1920 ở Đức, bảo hiểm điện áp thấp, như tên gọi của nó sau đó được bắt đầu như một loại hình bảo hiểm chuyên biệt cho thiết bị điện thoại, chủ yếu là để bảo vệ các công ty thuê bao điện thoại chống lại ảnh hưởng về mặt tài chính có tính chất hậu quả của tổn thất hay hư hỏng thiết bị.
    Trong những năm 30, phạm vi vủa những thiết bị được bảo hiểm được mở rộng bao gồm các hệ thống loa chuyên dùng, hệ thống tín hiệu ánh sáng và hệ thống báo cháy cũng như các thiết bị viễn thông khác, tiếp đến là xuất hiện của thế hệ máy tính điện tử .
     Công nghệ máy tính hiện đại đã phát triển và được hoàn chỉnh bởi KONZADZNSE tai Đức vào năm 1941. Trong cùng thời gian đó ở Mỹ ,hình thành chuỗi máy tính điều khiển tự động, bước tiếp theo là sử dụng các ống điện tử cho việc tính toán. Máy tính lớn nhất ENIAC là một hệ thống khổng lồ với hơn 18000 ống điện tử, 1500 thiết bị ngoại vi khác và có mức tiêu thụ trên 150KW. Sau đó là một chương trình ghi nhớ được phát hiện bởi nhà toán học John Newman trong năm 1948.
    Cho đến năm 1950, có sự thay thế các ống điện tử bằng transito và diot. Từ trước đến năm 1960 vi mạch điện tử mở đường cho “cách mạng công nghiệp lần thứ 3"
    * Tiếp đến năm 1970: những yếu tố rủi ro mới xuất hiện đòi hỏi phải có những điều kiện bảo hiểm mới dẫn đến sự ra đời đơn bảo hiểm thiết bị điện tử (EEI).
    Năm 1980 EEI trở thành hợp đồng bảo hiểm được yêu cầu nhiều nhất trong lĩnh vực bảo hiểm kĩ thuật.
    Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp điện tử trong thế kỉ 20 cùng với sự xâm nhập có nhiều đổi mới của loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra loại hình bảo hiểm chuyên dụng này có tầm quan trọng hiện nay của thế giới bảo hiểm. Ngày nay nhiều doanh nghiệp không thể cạnh tranh khi thiếu vô số các loại công nghệ mà nghành điện tử cung cấp và trong trường hợp tổn thất hay hư hỏng thiết bị điện tử của mình nhiều công ty có thể không có khả năng tồn tại lâu dài. Tình hình này đã có lợi cho sự phát triển của loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử trong quá khứ và sẽ phát triển liên tục trong nhiều năm tới .
    Hiện nay theo ước tính thì tại thị trường bảo hiểm đức, một thị trường được coi là phát triển nhất vê bảo hiểm kĩ thuật nói chung và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng. Năm 1992 ở  đức ,bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra doanh thu phí bảo hiểm vượt hơn 450.000.000 U S D chiếm gần 33% tổng doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật .
    Ở Việt nam, bảo hiểm thiết bị điện tử đến thời điểm này có thể coi là một trong những sản phẩm mới nhất được tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Baoviet) nghiên cứu triển khai bắt đầu vào tháng 10 năm 1996
    3. Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử
                Để hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử không thể đơn thuần áp dụng một cách máy móc, một sự tiếp thu thiếu chọn lọc từ nhiều nước trên thế giới mà ngoài tính lí thuyết đầy thuyết phục thì xuất phát điểm thứ hai đó là tình hình thực tế, nó có phù hợp có khả thi hay không. Cũng một nghiệp vụ bảo hiểm nhưng chỉ có thể thành công ở nước này nhưng lại hoàn toàn không triển khai được ở nước khác, điều này cũng chính là do điều kiện nội tại của bản thân mỗi nước, có đặc điểm và ưu thế riêng .Các điều kiện đó chính là: điều kiện về kinh tế, điều kiện về dân số và điều kiện về môi trường pháp lí. Ở Việt nam các điều kiện đó như sau :
    a,Điều kiện về kinh tế
    Kinh tế là một trong những biểu thức quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển nghiệp vụ này. Khi một nền kinh tế nghèo nàn thì điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất sẽ không được trang bị hiện đại do đó sẽ không có bảo hiểm thiết bị điện tử. Nhưng thực tế là  ở Việt nam kinh tế chưa phải là phát triển song những gì mà nền kinh tế đã đạt được như hiện nay quả là một điều kiện hết sức thuận lợi cho nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử phát triển.
    Sau khi có chính sách đổi mới về kinh tế, mở cửa ra thị trường thế giới thì thị trường việt nam về công nghệ thông tin đã được khởi sắc từ đầu những năm 90. Bước khẳng định cho sự phát triển thị trường này là tác động vĩ mô của nhà nước về chính sách công nghệ thông tin. Ngày 7 tháng 4 năm 1993  chính phủ ban hành Nghị định 49/CP xác định chính sách, quan điểm và mục tiêu của việc phát triển công nghệ thông tin đến năm 2000 .
    Các công ty máy tính tầm cỡ thế giới bắt đầu bước vào thị trường Việt Nam như Compaq, IBM, ACER ...
    Một yếu tố hết sức thuận lợi nữa là  khi nền kinh tế Việt nam có mức độ tăng trưởng cao và ổn định thì đi đôi với nó là yêu cầu phục vụ về thông tin, phục vụ về sức khoẻ cho người dân, phục vụ sinh hoạt giải trí hết sức được quan tâm. Đó là các nghành như: truyền hình,thiết bị phục vụ y tế, các trung tâm điện tử, viện nghiên cứu... bắt buộc phải có các thiết bị điện tử có giá trị lớn nhập từ nước ngoài về. Do đó muốn bảo đảm cho chúng trong điều kiện hết sức phức tạp ở Việt nam, các cơ quan như truyền hình bệnh viện, bưu điện, phải tham gia nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
    Bảng 1:Minh hoạ về tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam trong thời gian 1994-1998
    Năm
    1994
    1995
    1996
    1997
    1998
    Tốc độ tăng trưởng(%)
    8,8
    9,5
    9,3
    9,0
    6,1

           Môi trường kinh tế nói chung đang tạo điều kiện thuận lợi cho những nước kém phát triển như Việt nam những cơ hội thuận lợi để mau chóng hội nhập vào mạng lưới thông tin quốc tế . Tính toàn cầu hoá của mạng lưới thông tin quốc tế biến bất cứ một quốc gia nào không phải là chiều đi hay chiều đến thì cũng trở thành nơi quá cảnh của các luồng thông tin và do đó việc nâng cao tính đồng bộ của hệ thống thông tin toàn cầu trở thành yêu cầu khách quan . Với một đất nước hơn 70 triệu dân, mặt bằng thông tin còn nhiều trống vắng nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, rõ ràng thị trường công nghệ thông tin Việt nam có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này . Trong những năm gần đây, dưới tác động của chính sách đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã mở ra những nhu cầu to lớnvề thông tin trong hoạt động kinh doanh và mức sống của dân cư được nâng lên đã kéo theo những nhu cầu mới trong giao tiếp và trao đổi thông tin không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong đời sống tình cảm tinh thần và nâng cao kiến thức. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống đang và sẽ mở rộng thị trường công nghệ thông tin ngày càng lớn hơn . Đồng thời chính sách mở cửa và quá độ sang kinh tế thị trường còn hình thành một khuôn khổ thể chế mới cho các quan hệ hợp tác và đầu tư quốc tế phát triển hơn nữa, đặc biệt là thời kì sau khi quan hệ giữa Việt nam và Mỹ được bình thường hoá . Trong lúc đó, việc Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ kinh tế Việt nam với Nhật bản, với các nước EU và các quốc gia khác trên thế giới đang tiến triển tốt, đã giúp cho thị trường công nghệ thông tin có điều kiện không hạn chế  trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình mới.
    b, Điều kiện về dân số :
    Dân số là một trong những vấn đề quan trọng, là cơ sở để công ty PTI dự đoán tiềm năng trong tương lai, những lỗ hổng của thị trường mà công ty chưa khai thác được. Do đó nghiên cứu dân số để tìm ra được thực tế của nó trên các mặt này sẽ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp công ty thành công trên con đường kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ này nói riêng.
    Bảng 2 :Công nghệ thông tin và dân số các nước
    Stt
    Quốc gia
    Dân số (triệu người)
    Số máy tính/1000người
    1
    Việt nam
    72
    0,5
    2
    Trung quốc
    1178
    1,00
    3
    ấn độ
    903
    1,00
    4
    Philipin
    68
    4,00
    5
    Thái lan
    59
    9,00
    6
    Hàn quốc
    45
    37,00
    7
    Đài loan
    21
    74,00
    8
    Nhật
    125
    97,00
    9
    Hồng kông
    6
    101,00
    10
    Singapo
    3
    125,00
    11
    New Zealand
    3
    147,00
    12
    úc
    18
    192,00
    13
    258
    287,00
    Nguån :PC WoRLD 12/1995
    Tõ b¶ng trªn cho ta thÊy møc cÇu cña  c«ng nghÖ th«ng tin mét sè n­íc trªn thÕ giíi. Qua b¶ng nµy ta thÊy sè m¸y vi tÝnh /1000ng­êi d©n cña ViÖt nam lµ rÊt thÊp, chøng tá r»ng ViÖt nam cßn lµ mét thÞ tr­êng c«ng nghÖ th«ng tin tiÒm n¨ng lín. Do ®ã b¶o hiÓm trong lÜnh vùc nµy cã nhiÒu c¬ héi ®Ó ph¸t triÓn vµ ®¹t kÕt qu¶ kh¶ quan trong t­¬ng lai.
    c,§iÒu kiÖn m«i tr­êng ph¸p lÝ:
    Chóng ta kh«ng thÓ phñ nhËn ®­îc tÇm quan träng cña m«i tr­êng luËt ph¸p ®èi víi nghiÖp vô b¶o hiÓm thiÕt bÞ ®iÖn tö . Mét m«i tr­êng luËt b¶o hiÓm th«ng tho¸ng ra ®êi sím sÏ cã nhiÒu ­u thÕ ®èi víi c¸c c«ng ty b¶o hiÓm. Ở Việt nam bước đầu đã có được ưu thế đó :
    *+ Từ cuối năm 1993 chính phủ Việt nam ban hành nghị định 100/CP định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam với việc cho phép các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm kể cả thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài. Cho phép các loại hình bảo hiểm tồn tại và phát triển bao gồm công ty bảo hiểm gốc, công ty chuyên tái bảo hiểm kể cả mạng lưới trung gian bảo hiểm (môi giới và đại lí )
    Một môi trường như vậy sẽ tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng tồn tại và phát triển một cách ổn định và vững chắc .
    + Bộ tài chính đã ban hành các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực hiện nghị định 100/CP (thông tư 46):qui định chế độ quản lí tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm (thông tư 45):qui định chế độ hoa hồng bảo hiểm (thông tư 76 và 02 )qui định tái bảo hiểm bắt buộc (qui định 1235)hướng dẫn bảo hiểm các công trình xây dựng theo nghị định 117/CP(thông tư 105)
    + Luật bảo hiểm đang được nghiên cứu và soạn thảo
    Các văn bản pháp qui khác liên quan đến hoạt động bảo hiểm đang được soạn thảo ,hoàn chỉnh sửa đổi bổ xung như :chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp bảo hiểm ,luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam
    Tất cả những tình hình trên thể hiện một môi trường pháp lí tương đối ổn định và đang được hoàn  thiện theo một định hướng phù hợp xu thế chung của thế giới.

    B- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ

    I- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI BẢO HIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
    1- Đối tượng bảo hiểm
    *Trong bảo hiểm thiết bị điện tử đối tượng bảo hiểm là các loại máy móc thiết bị điện tử (tức là những máy móc thiết bị có lắp cac mạch và các linh kiện điện tử )dùng trong các ngành các lĩnh vực khác nhau như bưu điện ,viễn thông, tin học, y tế, điện ảnh, phát thanh truyền hình ,hàng hải ,hàng không, khí tượng  khoa học kĩ thuật  vv.....
    2-Phạm vi bảo hiểm
    Phạm vi bảo hiểm thiết bị điện tử được chia ra làm 3 phần. Đó là bảo hiểm vật chất đối với các thiết bị điện tử, bảo hiểm cho phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài và bảo hiểm chi phí gia tăng. Người tham gia bảo hiểm  có thể tham gia một hoặc cả 3 phần này và khi đó mức phí bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm cũng phụ thuộc tương ứng vào việc lựa chọn các phạm vi bảo hiểm này.

    Phần I-Tổn thất vật chất đối với thiết bị 

    Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những thiệt hại vật chất bất ngờ không lường trước xảy ra đối với thiết bị điện tử do các nguyên nhân như: cháy nổ, sét đánh trực tiếp hoặc gián tiếp, đoản mạch, nước, sơ xuất của người sử dụng và các sự cố ngẫu nhiên khác không bị loại trừ theo các điều kiện của đơn bảo hiểm .
    Ngoài ra, nếu các thiết bị điện tử đã được công ty PTI bảo hiểm theo phần I nói trên người được bảo hiểm có thể mua bảo hiểm thêm cho các phần II và III như đề cập dưới đây.

    Phần II:Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài

    Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những chi phí để sửa chữa hoặc thay thế các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trong trường hợp chúng bị tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm như qui ddịnh ở phần I gây ra và các chi phí để khôi phục lại những thông tin đã mất .Phần II chỉ có hiệu lực khi người được bảo hiểm tham gia cả phần I của đơn bảo hiểm này

    Phần III-Chi phí gia tăng

    Nếu hệ thống xử lí dữ liệu điện tử (EDP) bị tổn thất vật chất thuộc pham vi bảo hiểm, công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các chi phí cho việc tạm thời thuê mướn các thiết bị thay thế cũng như các chi phí về nhân công và các chi phí gia tăng khác theo qui định của Đơn bảo hiểm nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của người được bảo hiểm không bị gián đoạn khi tổn thất xảy ra.

    II-RỦI RO BẢO HIỂM VÀ NHỮNG ĐIỂM LOẠI TRỪ

    1-Rủi ro bảo hiểm
    Có thể nói rủi ro bảo hiểm là một trong những khái niệm cơ bản cùng với "bảo hiểm", "đối tượng bảo hiểm". Rủi ro bảo hiểm là yếu tố cấu thành phạm vi bảo hiểm, là tiêu chuẩn để xác định một sự cố có phải là sự cố bảo hiểm hay không. Và do đó, rủi ro bảo hiểm là khái niệm chi phối mạnh mẽ kết cục xử lí một khiếu nại bảo hiểm, một vấn đề tài chính -pháp lí tập trung và phức tạp nhất trong lĩnh vực bảo hiểm .
    Thiết bị bảo hiểm phải chịu rất nhiều yếu tố rủi ro có thể dẫn đến tổn thất. Một số rủi ro chính là :các rủi rỏ về kĩ thuật như: Cháy, nước, động đất, bão, sét đánh.
    *Các yếu tố môi trường như :sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm, khói bụi ... Tăng điện áp đột ngột ,chập mạch điện, hỏng hóc cơ học, lỗi do bất cẩn, cẩu thả của những người vận hành, phá ngầm trộm cắp .
    Tất cả các rủi ro thường hay xảy ra đối với thiết bị điện tử kể trên đều được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử của PTI .Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử là dạng đơn bảo hiểm mọi rủi do, chỉ không bảo hiểm những nội dung được ghi trong phần “các điểm loại trừ “Như vậy, có thể thấy phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm này là rất rộng so với các loại đơn bảo hiểm khác có thể bảo hiểm cho loại hình tài sản này, ví dụ như đơn bảo hiểm cháy ,nổ, sét đánh (trực tiếp) và một và rủi ro khác không điển hình đối với các thiết bị điện tử (như rủi  ro do máy bay và các phương tiện hàng không khác rơi vào ; gây rối, bạo loạn, đình công, giông bão.... Nhưng hầu hết những rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy không phải là rủi ro điển hình cuả thiết bị điện tử.

    Bảng 3: Bảo hiểm cho các TBĐT
    (Các rủi ro chính được bảo hiểm theo các đơn BH khác nhau)
    Các rủi ro
    bảo hiểm


    Loại
    hình
    bảo hiểm
    Cháy (bao gồm cả các tổn thất phát sinh từ các công việc chữa cháy và cứu hộ)
    Sét đánh, nổ, đâm va của máy bay
    Cháy xém, cháy âm ỉ phủ bụi bồ hóng
    Thiệt hại do điện (đoản mạch, quá điện áp..)

    Trộm cắp
    Cướp bóc, phá hoại ngầm, hành động cố ý

    Rò rỉ nước
    Lũ lụt, ngập nước
    Vận hành sai (bất cẩn, cẩu thả, thiếu kỹ năng..)

    Bảo hiểm
    TBĐT


        n

       n

       n

       n

       n

       n

       n

       n

       n

    BH Cháy



           n
    Chỉ sét đánh trực tiếp, nổ hoá học








    BH Trộm






           n





    BH thiệt hại do nước







        n



    BH Máy móc


    Chỉ sét đánh gián tiếp,nổ lý học

      n
           
       n


        n

       n


       n

    2.Những điểm loại trừ
    a) Điểm loại trừ chung :
      Công ty PTI không bồi thường những thiệt hại là hậu quả trực tiếp của sự hao mòn hay hư hỏng dần theo thời gian,chiến tranh và bạo lực, trộm cắp (trừ khi có thoả thuận riêng) hành động ác ý hoặc có chủ ý của người được bảo hiểm, phản ứng hạt nhân và nhiễm phóng xạ, lập chương trình sai, các chi phí để thực hiện công tác bảo dưỡng nhằm mục đích hạn chế và ngăn ngừa tổn thất và đảm baỏ cho các thiết bị hoạt động an toàn.
    b.Các điểm loại trừ riêng :
    Các điểm loại trừ riêng được áp dụng cho từng phần:
      - Phần tổn thất vật chất đối với thiết bị
      - Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài
      - Chi phí gia tăng
    Cụ thể ta đi vào từng phần :
    * Tổn thất vật chất đối với thiết bị điện tử :
    Công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với:
    *-Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (gọi tắt là BTTĐKBH) mà người được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố. Tuy nhiên nếu tronng một sự cố có 2 hạng mục trở lên bị tổn thất thì người được bảo hiểm chỉ chịu mức khấu trừ cao nhất trong các mức khấu trừ áp dụng cho các hạng mục bị tổn thất đó
    -Tổn thất trực tiếp hay  gián tiếp gây nên bởi núi lửa động đất, sóng thần, gió xoáy và bão mạnh từ cấp 8 trở lên
    -Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do trộm cướp .
    -Tổn thất mà hậu quả của nó là do tác động như hao mòn ,nứt vỡ ,ăn mòn kim loại, mài mòn đóng cặn hoặc hư hỏng dần theo thời gian bởi các yếu tố bên ngoài tác động .
    - Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do các dịch vụ hoặc nguồn cung cấp ví dụ: điện nước, khí ga bị hỏng hóc.
    - Tổn thất do sự sai sót trong đơn bảo hiểm tại thời điểm có hiệu lực mà người được bảo hiểm nhận ra điều đó cho dù công ty PTI có nhận ra hay không.
    * - Tổn thất thuộc trách nhiệm cuả các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp các hạng mục thiết bị được bảo hiểm theo qui định của pháp luật hoặc theo hợp đồng.
    - Bất cứ khoản phát sinh chi phí nào có liên quan đến việc bảo dưỡng cho các hạng mục được bảo hiểm
    - Bất cứ các chi phí nào bỏ ra có liên quan đến việc khắc phục những trục trặc về các chức năng hoạt động trừ khi các trục trặc đó là do một tổn thất có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm đó gây ra .
    - Tổn thất đối với các thiết bị cho thuê hay được thuê mà người chủ các thiết bị đó phải có trách nhiệm theo luật định hoặc theo một thoả thuận thuê mướn hay thoả thuận bảo dưỡng nào đó.
    -Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả.
    -Tổn thất đối với các bộ phận như bóng đèn, đèn điện tử, ống điện tử,ruy băng, cầu chì, vòng điện kín, dây đai (dây cu loa). Dây dẫn hoậc dây thép, xích, lớp cao su, các dụng cụ có thể thay đổi được, xi lanh, các vật bằng thuỷ tinh, gốm sứ, lưới lọc hoặc lưới thép hay bất kì chất liệu sử dụng nào (ví dụ như dầu bôi trơn, nhiên liệu, các loại hoá chất )
    - Các khuyết tật ảnh hưởng đến thẩm mỹ, ví dụ :các vết tỳ xước trên bề mặt đã được sơn,đánh bóng hoặc tráng men .
    * Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài :
    Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu các phương tiện EDM (phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoaì ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (bao gồm các thông tin lưu trữ trên đó mà các thông tin này có thể được xử kí trực tiếp trong các hệ thống EDP) bị bất kì một tổn thất vật chất nào có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất. Công ty PTI sẽ bồi thường những tổn thất đó với mức bồi thường trong bất cứ năm bảo hiểm nào cũng không vượt quá số tiền ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm với điều kiện là các tổn thất đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn bảo hiểm nào tiếp theo mà người được bảo hiểm đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí bảo hiểm để gia hạn cho đơn bảo hiểm đó .
    Tuy nhiên công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường :
    *  - Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểmngười được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố.
    - Các chi phí phát sinh do lập chương trình,đục lỗ ghi nhãn hoặc chèn thông tin sai, xoấ thông tin do nhầm lẫn hoặc loại bỏ không dùng các phương tiện chứa dữ liệu hoặc  mất thông tin do tác động của từ trường
    - Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả dưới bất kì hình thức nào
    *Chi phí gia tăng
    Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu tổn thất vật chất có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất của đơn bảo hiểm làm cho hoạt động của các thiết bị EDP thay thế (mà các thiết bị thay thế này chưa được bảo hiểm theo đơn) tuy nhiên mức bồi thường sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm tính theo ngày như đã thoả thuận và cũng không vượt quá tổng số tiền bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm với điều kiện là việc gián đoạn đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn nào tiếp theo mà người được bảo hiểm đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí để gia hạn cho đơn bảo hiểm.
    Nhưng công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường cho bất cứ chi phí tăng thêm nào đó phát sinh do:
    - Có những qui định của hạn chế do các nhà chức trách ban hành liên quan đến việc thiết kế, chế tạo lại thiết bị EDP được bảo hiểm hoặc hoạt động của các thiết bị đó.
    - Người được bảo hiểm không có sẵn các quĩ cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời việc sửa chữa hoặc thay thế các thiết bị hư hại hay phá huỷ

    III-SỐ TIỀN BẢO HIỂM VÀ PHÍ BẢO HIỂM

    1-Số tiền bảo hiểm
    Là giá trị tài sản được công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm . Trong mọi trường hợp đó là giới hạn trách nhiệm tối đa của công ty bảo hiểm đối với tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại
    Ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử số tiền bảo hiểm được áp dụng như sau:
    a. Bảo hiểm thiệt hại vật chất đối với các thiết bị điện tử:        
    - Yêu cầu của loại hình bảo hiểm này là số tiền bảo hiểm của mỗi hạng mục không được thấp hơn giá trị thay thế mới đầy đủ của nó, bao gồm cả cước phí, thuế và các chi phí về hải quan và chi phí lắp đặt... và người được bảo hiểm phải cam kết điều chỉnh lại số tiền bảo hiểm trong trường hợp có bất kỳ biến động lớn nào về tiền lương hoặc giá cả.
    Trong trường hợp xảy ra tổn thất, nếu số tiền bảo hiểm được phát hiện thấp hơn số tiền cần phải được bảo hiểm như đề cập ở trên thì số tiền bồi thường sẽ được giảm tương ứng với tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm thực tế và số tiền lẽ ra cần phải được bảo hiểm như yêu cầu. Điều kiện này áp dụng riêng rẽ đối với từng hạng mục được bảo hiểm.
    Khi đã xác định được số tiền bảo hiểm, nên tiếp tục xem xét để cộng thêm vào số tiền bảo hiểm phần chi phí có thể gia tăng thêm về giá nguyên vật liệu hoặc tiền lương trong giai đoạn bảo hiểm đầu tiên.
    b.Bảo hiểm cho phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài.
    Số tiền bảo hiểm phải được xác định phù hợp với các chi phí cần thiết để thay thế tất cả các phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài và để phục hồi lại những thông tin đã được lưu trữ trên đó. Vì chỉ có thể ước tính các chi phí để phục hồi lại thông tin nên việc bảo hiểm cho các chi phí này dựa trên cơ sở tổn thấy đầu tiên (first loss) với một hạn mức bồi thường phải được ước tính hết sức kỹ càng trên cơ sở đánh giá tổn thất lớn nhất có thể xảy ra đối với các chi phí này. Không áp dụng điều khoản bảo hiểm dưới giá trị cho phần này.
    c. Bảo hiểm chi phí gia tăng.
    Số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở các chi phí có thể bỏ ra tính theo ngày và tháng trong thời hạn 1 năm do phải sử dụng một hệ thống EDP thay thế.
    Các chi phí phát sinh thêm một lần nữa để lập trình và chuyên chở có thể được bảo hiểm theo điều khoản sửa  đổi bổ sung tới một hạn mức được quy định riêng cũng trên cơ sở tổn thất đầu tiên.

    2. Nguyên tắc và phương pháp tính phí
    a. Nguyên tắc chung để xác định phí bảo hiểm
      Để xác định phí bảo hiểm thiết bị điện tử, ta dựa trên cơ sở tỉ lệ phí và giá trị bảo hiểm.
    Phí bảo hiểm =Tỉ lệ phí * Số đơn vị giá trị bảo hiểm
    Khi tính phí bảo hiểm thiết bị điện tử thì trong phí phải chứa đầy đủ các yếu tố lạm phát, thay đổi giá cả... Cần tránh bảo hiểm dưới giá trị .Khi kết thúc một thời hạn bảo hiểm (1 năm), nếu NĐBH muốn tái tục hợp đồng thì người bảo hiểm phải xem xét điều chỉnh phí bảo hiểm cho phù hợp với giá trị của bảo hiểm.
    b.Phí bảo hiểm áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối  với các thiết bị điện tử :
    Dưới đây là các mã số của từng chủng loại máy móc thiết bị điện tử sử dụng trong các ngành khác nhau :
    0100 Các hệ thống và thiết bị xử lí dữ liệu (EDP)
    0200 Thiết bị viễn thông
    0300 Thiết bị thu phát ,dùng trong phát thanh truyền hìnhvà thiết bị điện ảnh
    0400    Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải
    0500    Thiết bị dùng cho nghiên cứu
    0600    Thiết bị điện tử dùng trong y tế
    0700    Bộ phận phát tín hiệu và truyền dẫn
    0900    Máy móc thiết bị dùng trong văn phòng
    1000    Bộ phận kiểm tra và ghi
    * Đối với các hệ thống thiết bị xử lý dữ liệu (001), thiết bị viễn thông (002), thiết bị thu phát dùng trong phát thanh truyền hình (003) có biểu tỉ lệ phí bảo hiểm (trong phần phụ lục).
    *Tỉ lệ phí đề cập trong biểu phí chỉ là tỉ lệ phí tối thiểu tương ứng với các điều kiện bảo hiểm cơ bản áp dụng với điều kiện rủi ro bình thường mà không có các yêú tố làm tăng mức độ hoặc khả năng rủi ro .
    Nếu có những yếu tố làm tăng mức độ và khả năng rủi ro thì phải tăng thêm phí (trong những trường hợp đó phải thông báo những thông tin cụ thể về công ty để công ty xem xét và quyết định ).Biểu phí này cũng áp dụng với thời hạn bảo hiểm tiêu chuẩn là một năm và với một mức khấu trừ tối thiểu, vì vậy nếu áp dụng thời hạn bảo hiểm ngắn hơn hoặc mức khấu trừ  cao hơn thì có thể giảm phí .
      Biểu phí được đề cập trong bảng phụ lục áp ụng đối với các thiết bị điện tử và phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài hoạt động và được bảo quản trong những  điều kiện làm việc bình thường, tức là không có tình huống làm tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro và tuổi của các thiết bị này không quá 7 năm.
    * Phí bảo hiểm rủi ro động đất
      Tỉ lệ phí cơ bản đề cập trong các biểu phí trên chưa kể đến rủi ro về động đất . Nếu bảo hiểm thêm rủi ro này thì phải cộng thêm phụ phí bảo hiểm như đề cập trong bảng dưới đây .
    Bảng 4: Tỷ lệ phí rủi ro do động đất    Đơn vị : %o tính theo năm
    Độ nhạy cảm đối với rủi ro động đất
    Hệ số khả năng xảy ra động đất ở từng vùng
    0                       1                             2
    Loại C
    Loại D
    Loại E
    Loại F
    Loại G
    0                  0.20                        0.40
    0                   0.25                       0.45
    0                   0.29                       0.57
    0                   0.35                       0.68
    0                   0.42                       0.82
    Kí tự ghi trong bảng
    Kí tự          Số tiền bảo hiểm (USD)             
    C                   17000
    D                  35000
    E                   85000
    F                   170000
    G                  350000

    Các rủi ro động đất, thiệt hại do sóng thuỷ triều gây ra do tác động của động đất và núi lửa phun là các rủi ro bị loại trừ trong đơn bảo hiểm chính. Nếu khách hàng yêu cầu bảo hiểm thêm các rủi ro này thì áp dụng ĐKSĐBS 505 với hạn mức bồi thường không vượt quá 1000.000USD nhưng với điều kiện là thu thập đầy đủ các thông tin có liên quan như đề cập trong phiếu điều tra về rủi ro này.
    Nếu bảo hiểm thêm những rủi ro này thì phải tính thêm phụ phí vì tỉ lệ phí cơ bản ghi trong biểu phí chưa tính đến những rủi ro này. Phụ phí cho các rủi ro này áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối với thiết bị điện tử và bảo hiểm phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài.
    Theo bản đồ của khu vực động đất của Munich Re các khu vực trên trái đất được chia thành 5 khu vực : Từ 0 đến 4.
    Khu vực có rủi ro động đất tăng dần theo thứ tự, chẳng hạn khu vực có rủi ro động đất mức độ 0 là hầu như không có động đất xảy ra và cấp động đất là V và dưới V tính theo độ Mercalli đã được sửa đổi .
    Khả năng xảy ra động đất ở mỗi vùng là khác nhau, ví dụ ở Việt nam có 3 vùng xảy ra động đất như : Đà nẵng , Hà nội, Lai châu (theo bản đồ thì các tỉnh miền bắc Việt nam thuộc khu vực có rủi ro động đất là 1 tức là ít xảy ra động đất).
    * Phí bảo hiểm các rủi ro lốc, xoáy, gió giật và bão lớn (mạnh trên cấp 8)
      Tỉ lệ phí cơ bản đề cập ở trên cũng chưa tính đến các rủi ro này, nếu bảo hiểm thêm thì phải tính thêm phụ phí theo bảng sau .
    Bảng 5: Tỷ lệ phí rủi ro do thiên tai  Đơn vị : %o tính theo năm
    Địa điểm các hạng mục được bảo hiểm
    Cấp độ gió bão theo từng vùng
    1                    2                          3
    Đặt trong nhà
    Đặt ngoài trời
    0.1                0.80                     1.5
    0.40              TCT                     TCT
    Khu vực 1: cấp độ thấp
    Khu vực 2: cấp độ trung bình
    Khu vực 3: cấp độ cao
     Mức TCT có nghĩa là địa điểm các hạng mục được bảo hiểm đặt ngoài trời và có gió bão từ cấp 2 trở lên vì vậy  phải thông báo về công ty để công ty quyết định.
    *Thông thường mức độ tác động của gió bão đối với các vùng ven biển được coi là cao còn ở các vùng sâu vào đất liền thì thấp hoặc trung bình.
    *Tỉ lệ phí cho trong bảng trên chỉ áp dụng nếu các hạng mục được bảo hiểm đặt ở các khu vực có độ cao cao hơn mực nước cao nhất đã thống kê được ở khu vực đó kể từ khi bắt đầu hiệu lực bảo hiểm trỏ về trước.
    Nếu các thiết bị điện tử đặt ở độ cao bằng hoặc thấp hơn so với qui định trên thì không được tự động chấp nhận bảo hiểm các rủi ro này mà phải xin ý kiến chỉ đạo của công ty PTI.
    c.Phí bảo hiểm áp dụng đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài
    .Tỉ lệ phí cơ bản
    Đây là tỉ lệ phí tối thiểu ứng với  các điều kiện bảo hiểm cơ bản của đơn bảo hiểm và được áp dụng đối với số tiền bảo hiểm tổn thất đầu tiên (first loss) mà người được bảo hiểm phải kê khai cụ thể trong bản trả lời câu hỏi như đề cập ở phần sau.
    Phần tiền bảo hiểm đối với các phương tiện lưu trữ này phải tương ứng với chi phí khôi phục lại các phương tiện này.
    Chi phí toàn bộ ước tính cho việc khôi phục lại các thông tin hiện tại từ các văn bản gốc và /hoặc chí phí ước tính để chuyển dữ liệu sang phương tiện lưu trữ  mới  nếu như có các bản sao phải tương ứng với phần tiền bảo hiểm trên cơ số tổn thất đầu tiên (first loss) để bảo hiểm cho việc khôi phục lại các thông tin được lưu trữ trên các phương tiện được bảo hiểm.
    Tỉ lệ phí  cơ bản áp dụng đối với số tiền bảo hiểm với điều kiện số tiền bảo hiểm không vượt quá 700.000 USD hoặc tương đương với mức khấu trừ  thông thường được tính bằng phần nghìn số tiền thiệt hại như đề cập trong Bảng dưới đây nhưng không được thấp hơn 700USD hoặc tương đương.

    Bảng 6: Nếu tăng mức khấu trừ thì tỉ lệ phí có thể được giảm như sau :
    Mức khấu trừ tăng
    5 lần
    10  lần
    Tỉ lệ phí giảm
    5%
    10%
    *     Tăng và giảm phí  :
    *Việc tăng hoặc giảm tỷ lệ phí cơ bản phụ thuộc vào các điều kiện rủi ro đề cập đến trong bản trả lời câu hỏi. Việc tăng hoặc giảm phí đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất đối với các hệ thống xử lý dự liệu điện tử (EDP) cũng áp dụng cho phần bảo hiểm các phương tiện lưu trữ bên ngoài (mất thông tin) một cách thính hợp.
    Cũng có thể giảm phí trong trường hợp các thông tin, dữ liệu sự phòng được lưu trữ trong các phòng có khả năng chống cháy
    Nơi lưu trữ     trong phòng đặt thiết bị EDP    bên ngoài phòng đặt thiết bị EDP
    Tỷ lệ giảm phí                    5%                                                10%
    c.     Phí bảo hiểm cho phần bảo hiểm chi phí gia tăng đối với các hệ thống có sử dụng máy tính
    Chỉ có thể nhận bảo hiểm phần này nếu sau khi hệ thống EDP bị tổn thất vật chất có thể được bồi thường theo phần bảo hiểm thiệt hạI vật chất mà vẫn có thể tránh được những tác động bất  lợi hoặc gián đoạn hoạt động kinh doanh bằng các biện pháp sau :
    - Sử dụng hệ thống xử lí dữ liệu của một bên thứ ba (trên cơ sở một thoả thuận đã kí trước khi bảo hiểm có hiệu lực )
    - Tăng cường thêm việc sử lí dữ liệu bằng tay
    - Sử dụng lao động dịch vụ sản xuất của một bên thứ ba
    * Xác định số tiền bảo hiểm
    Số tiền bảo hiểm (Theo năm) phải ngang bằng với số tiền có thể phải bỏ ra trong phạm vi 12 tháng cho các chi phí gia tăng được bảo hiểm ngay cả khi người được bảo hiểm lựa chọn thời gian bảo hiểm ngắn hơn. Phải ấn định riêng số tiền bảo hiểm ứng với mỗi hệ thống EDP độc lập.
    Số tiền bảo hiểm tính theo năm  bao gồm:


    x 12 tháng
     
    Chi phí gia tăng - Ví dụ: Tiền thuê các hệ thống xử lý dữ liệu của bên thứ 3 hoặc áp dụng các quá trình sc hoặc quá trình làm việc khác


    +
    Chi phí do tăng thêm nhân công sử dụng lao động dịch vụ và các hoạt động sản xuất củabên thứ 3


    +
    Chi phí vận chuyển theo giá cước hiện tại đối với các phương tiện lưu trữ hoặc nguyên vật liệu và nhân công


    -
    Chi phí tiết kiệm như tiết kiệm về cước phí sử dụng điện hàng ngày
    Nếu số tiền bảo hiểm tính theo năm vượt quá 1.700 USD hoặc tương đương thì phải xin ý kiến chỉ đạo của Công ty
    * Tỷ lệ phí bảo hiểm
    Tỷ lệ phí cơ bản là tỷ lệ phí tối thiểu tương ứng với các điều kiện bảo hiểm tiêu chuẩn đề cập trong đơn bảo hiểm và phụ thuộc vào quy mô của các thiết bị thuộc hệ thống EDP được bảo hiểm và được áp dụng trong các điều kiện sau:
    * (i) Thời gian bồi thường tối đa là 12 tháng, thời gian miễn thường ít nhất là 2 ngày làm việc (mức khấu trừ đối với chi phí phát sinh thêm chỉ một lần là 20%)
    (ii) Các điều kiện của rủi ro là bình thường và hạng mục được bảo hiểm không xê dịch.
    iii) Các quyền lợi của người được bảo hiểm đã được bảo hiểm bởi đơn bảo hiểm  thiết bị điện tử tiêu chuẩn với phạm vi đầy đủ tại công ty PTI.
    3. Điều chỉnh số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
    Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm phải được điều chỉnh mỗi khi có những thay đổi lớn về giá cả hoặc tiền lương, đặc biệt là vào những thời điểm tái tục đơn bảo hiểm cũ đã hết hạn. Để làm được điều này có thể tham khảo giá cả từ các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp.
    a) Điều chỉnh số tiền bảo hiểm
    Số tiền bảo hiểm được điều theo công thức sau:

                                                   E  
                                     S = So -------
                                                   Eo
    * Trong đó :
      S: Số tiền bảo hiểm của năm hiện tại
      So:Số tiền bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm
      E:Chỉ số giá sản xuất thiết bị trong năm hiện tại
      Eo:Chỉ số giá sản xuất thiết bị khi bắt đầu bảo hiểm
    b).Điều chỉnh phí bảo hiểm
                                           E                       L
                     P = Po  0,3 ----------   +  0,7---------
                                           E0                      L0
    *           Trong đó :
                P: Phí bảo hiểm của năm hiện tại
                Po:Phí bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm
                L:Chỉ số giá lao động trong năm hiện tại
                Lo: Chỉ số giá lao động khi bắt đầu bảo hiểm.
    Các hệ số 0,3 và 0,7 chỉ là các giá trị trung bình trên cơ sở giá trị nguyên vật liệu chiếm 30% và giá nhân công chiếm 70%. Nếu cần thiết thì các hệ số trên có thể thay đổi để phù hợp với điều kiện thực tế.
    Nếu tại thời điểm bắt đầu bảo hiểm mà một hạng mục nào đó đã được sử dụng 05 năm thì có thể áp dụng một hệ số phản ánh được  sự gia tăng vê giá trị thay thế mới tới thời điểm đó. Hệ số này được xác định trên cơ sở các chỉ số áp dụng trong các năm trước đó tại nước mà hạng mục đó được chế  tạo
    4. Mức khấu trừ
    a) Đối với thiệt hại vật chất
    Mức khấu trừ thông thường áp dụng cho mỗi hạng mục thiết bị đươc tính theo phần ngàn số tiền bảo hiểm và không được thấp hơn 200 USD hoặc số tiền tương đương.
       b) Đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài
    Mức khấu trừ thông thường được tính theo phần ngàn số tiền tổn thất và không được thấp hơn 700 USD hoặc số tiền tương đương.
    c) Đối với chi phí gia tăng
    Mức khấu trừ được tính toán theo thời gian miễn thường. Thời gian miễn thường tối đa là 02 ngày ứng với tỷ lệ phí tối thiểu. Thời gian thường dài hơn thì sẽ áp dụng các hệ số giảm phí .
    5. Phí bảo hiểm tối thiểu cho mỗi đơn bảo hiểm
    Phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm cho mỗi đơn bảo hiểm là:
          -  Đối với thiết bị EDP                      : 200 USD
          -  Đối với tất cả các hệ thống và thiết bị điện tử khác và phương tiện chứa dữ liệu  : 700 USD
         -  Đối với chi phí gia tăng                   : 100USD

    IV-HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ

    1. Giấy yêu cầu bảo hiểm
    Người được bảo hiểm phải kê khai đầy đủ vào giấy yêu cầu bảo hiểm thiết bị điện tử , sau đó gửi tới công ty PTI để công ty tiến hành kiểm tra thực tế địa điểm đặt các thiết bị được bảo hiểm và hiện trạng của những máy móc được yêu cầu bảo hiểm .Trên cơ sở xem xét đánh giá thực tế và những thông tin mà khách hàng khai báo, nếu thấy đầy đủ các điều kiện cấp đơn bảo hiểm thì cấp đơn bảo hiểm.
    2. Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm
    Trên cơ sở Người được bảo hiểm (dưới đây gọi tắt là NĐBH) đã gửi Giấy yêu cầu bảo hiểm (Giấy yêu cầu này được xem như là một bộ phận không tách rời của Đơn bảo hiểm) cho Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (Dưới đây gọi tắt là PTI), đã nộp cho PTI số phí bảo hiểm nêu trong Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm  (BTTĐKBH) kèm theo và tuân thủ các điều khoản, điều kiện và các điểm loại trừ quy định trong Đơn bảo hiểm  này, PTI sẽ trả tiền bồi thường cho NĐBH theo cách thức và tới mức độ như quy định dưới đây.
    Đơn bảo hiểm này áp dụng cho các thiết bị có tên trong danh mục được bảo hiểm cho dù các thiết bị này đang hoạt động hoặc không hoạt động, đang được tháo dỡ hoặc lau chùi bảo dưỡng, đại tu hoặc để di chuyển trong khu vực được bảo hiểm,  đang trong quá trình thực hiện chính các công việc nêu trên hoặc trong quá trình được lắp ráp trở lại sau đó, nhưng dù trong bất kỳ trường hợp nào thì Đơn bảo hiểm này cũng chỉ áp dụng khi các thiết bị  này đã qua chạy thử thành công.
     Các điều kiện chung:
    1.  Điều kiện tiên quyết để ràng buộc trách nhiệm của PTI là NĐBH phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định ghi trong Đơn bảo hiểm này, trung thực khai báo và trả lời các câu hỏi ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm theo mẫu đính kèm theo Đơn bảo hiểm này.
    2.  BTTĐKBH và các phần của Đơn bảo hiểm được xem là các bộ phận không thể tách rời và là một bộ phận hợp thành của Đơn bảo hiểm này, và cụm từ "Đơn bảo hiểm này "bất cứ lúc nào được sử dụng trong hợp đồng này sẽ được hiểu là bao gồm BTTĐKBH và các phần đó. Bất kỳ một từ hoặc một cụm từ nào đã mang một nghĩa xác định nào đó tại bất cứ phần nào trong đơn bảo hiểm này, trong BTTĐKBH hoặc trong các phần của Đơn bảo hiểm thì dù xuất hiện ở đâu từ hoặc cụm từ đó cũng mang cùng một nghĩa như vậy.
    3.  NĐBH, bằng chi phí riêng của mình, phải thực hiện mọi biện pháp hợp lý và tuân theo mọi kiến nghị  hợp lý của PTI nhằm ngăn chặn tổn thất và phải tuân thủ mọi quy định pháp luật và khuyến nghị của nhà chế tạo.
    4. a)Vào bất kỳ thời gian hợp lý nào, đại diện của PTI cũng có quyền xem xét và kiểm tra rủi ro được bảo hiểm và NĐBH phải cung cấp cho đại diện của PTI mọi chi tiết, thông tin cần thiết để đánh giá rủi ro được bảo hiểm.
    b)NĐBH phải lập tức thông báo cho PTI bằng điện tín và văn bản về bất cứ thay đổi nào đối với rủi ro được bảo hiểm và bằng chi phí riêng của mình thực hiện những biện pháp mà tình thế đòi hỏi để đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động của các hạng mục thiết bị được bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm cũng như chi phí bảo hiểm sẽ được điều chỉnh thích hợp nếu thấy cần thiết. NĐBH không được thực hiện hoặc  chấp nhận những sự thay đổi nào làm tăng thêm rủi ro trừ khi PTI có văn bản xác nhận rằng Đơn bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực trong các trường hợp đó.
    5. Trong trường hợp xảy ra những sự cố có thể dẫn đến việc bồi thường theo Đơn bảo hiểm này, NĐBH phải:
    a) Lập tức thông báo ngay cho PTI bằng điện thoại hoặc điện tín cũng như bằng văn bản nêu rõ tính chất và mức độ tổn thất;
    b) Thực hiện mọi biện pháp phù  hợp với khả năng của mình để hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất;
    c) Giữ gìn các chi tiết hay bộ phận bị hư hại và sẵn sàng để cho đại diện hay giám định viên của PTI giám định các chi tiết hay bộ phận đó ;
    d) Cung cấp mọi thông tin và chứng từ văn bản theo yêu cầu của PTI;
    e)Thông báo cho cơ quan công an nếu tổn thất do trộm cướp.
    Trong mọi trường hợp PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà trong vòng 14 ngày kể từ khi xảy ra tổn thất PTI không nhận được thông báo về những tổn thất đó. Ngay sau khi thông báo cho PTI theo điều kiện này, NĐBH có thể tiến hành sửa chữa hay thay thế các hư hỏng nhỏ, còn trong mọi trường hợp khác, nhất thiết phải có đại diện của PTI để giám định  tổn thất trước khi thực hiện việc sửa chữa thay thế. Nếu đại diện của PTI không tiến hành giám định trong một thời gian được xem là hợp lý xét theo tình hình thực tế thì NĐBH có quyền xúc tiến việc sửa chữa hay thay thế.
    Trách nhiệm của PTI đối với bất kì hạng mục bị tổn thất nào thuộc đối tượng bảo hiểm sẽ chấm dứt nếu hạng mục đó vẫn được sử dụng sau khi khiếu nại mà không được sửa chữa như yêu cầu của PTI hoặc nếu chỉ được sửa chữa tạm thời mà không được sự đồng ý của PTI.
    6. NĐBH, với chi phí do PTI chịu, phải thực hiện, kết hợp thực hiện và cho phép thực hiện mọi hành động và mọi công việc xét thấy cần thiết hay theo yêu cầu của PTI để bảo vệ những lợi ích liên quan đến các quyền hạn hoặc các biện pháp nhằm được các bên thứ ba
    (không được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này ) cho miễn giảm trách nhiệm hay đòi được bồi thường từ các bên thứ ba đó mà PTI được hưởng hay có thể được hưởng hoặc được thế quyền hay có thể được thế quyền ngay sau khi PTI đã bồi thường thiệt hại theo Đơn bảo hiểm này cho dù những hành động hay công việc như vậy cần phải được thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện trước hay sau khi PTI bồi thường cho NĐBH.
    7. Trong trường hợp có bất cứ tranh chấp nào giữa PTI và NĐBH về số tiền được bồi thường theo Đơn bảo hiểm này (mà nếu không có việc tranh chấp này thì trách nhiệm đã được thừa nhận), những tranh chấp đó sẽ được chuyển cho một trọng tài quyết định mà trọng tài này do hai bên chỉ định bằng văn bản. Nếu hai bên không nhất trí được việc chỉ định một trọng tài thì mỗi bên bằng văn bản sẽ chỉ định một trọng tài riêng và tranh chấp này sẽ được chuyển cho hai trọng tài đó quyết định với điều kiện là việc chỉ định đó phải được thực hiện trong vòng một tháng kể từ khi bên này hoặc bên kia đưa ra yêu cầu về việc chỉ định này bằng văn bản. Trong trường hợp những trọng tài nói trên không đi đến nhất trí thì tranh chấp sẽ được chuyển cho một trọng tài do các trọng tài đó chỉ định bằng văn bản trước khi đưa tranh chấp ra giải quyết. Trọng tài này sẽ ngồi lại cùng với các trọng tài đó và chủ trì các cuộc họp để giải quyết tranh chấp. Phán quyết do trọng tài chủ trì đưa ra sẽ là điều kiện tiên quyết đối với bất cứ việc kiện tụng nào nhằm chống lại PTI.
    8.a) Nếu những thông tin đề cập trong Giấy yêu cầu bảo hiểm hoặc những khai báo của NĐBH có bất cứ khía cạnh cơ bản nào không đúng sự thật hoặc nếu NĐBH đưa ra bất cứ khiếu nại gian lận nào hoặc mức độ khiếu nại bị thổi phồng lên quá mức hoặc nếu có bất cứ sự khai báo sai lệch nào nhằm bảo vệ cho những khiếu nại đó thì hiệu lực của Đơn bảo hiểm này sẽ chấm dứt và PTI sẽ không chịu trách nhiệm chi trả bất cứ khoản bồi thường nào theo Đơn bảo hiểm này.      
    b)     Trong trường hợp PTI từ chối trách nhiệm đối với bất kì khiếu nại nào mà không có việc kiện tụng nào được tiến hành trong vòng ba tháng kể từ khi có sự từ chối đó hoặc trong vòng ba tháng kể từ khi các trọng tài đã đưa ra phán xét (trong trường hợp xảy ra việc phân xử như đề cập trong Điều 7 kể trên) thì tất cả mọi quyền lợi liên quan đến khiếu nại này sẽ không còn giá trị.
    9.     Nếu vào thời điểm phát sinh bất kì khiếu nại nào mà có bất cứ Đơn bảo hiểm nào khác cũng bảo hiểm cho những tổn thất được khiếu nại đó thì số tiền bồi thường mà PTI có thể phải chi trả cho tổn thất đó sẽ không vượt quá phần tỉ lệ của PTI đối với khiếu nại về tổn thất đó.
    10. Đơn bảo hiểm này có thể chấm dứt hiệu lực theo yêu cầu của NĐBH vào mọi thời điểm và trong các trường hợp như vậy PTI sẽ giữ lại phần phí bảo hiểm được tính theo biểu phí ngắn hạn ứng với thời gian Đơn bảo hiểm này có hiệu lực. Theo đề nghị của PTI, Đơn bảo hiểm này cũng có thể chấm dứt hiệu lực sau 7 ngày kể từ ngày PTI thông báo đề nghị này cho NĐBH và trong các trường hợp đó PTI sẽ hoàn trả lại phần phí bảo hiểm được tính theo tỉ lệ tương ứng với thời gian Đơn bảo hiểm này không còn hiệu lực nữa kể từ ngày chấm dứt hiệu lực sau khi trừ đi bất cứ khoản chi phí hợp lí nào về điều tra giám định mà PTI có thể đã bỏ ra và cũng trừ đi bất cứ khoản chiết khấu nào về phí bảo hiểm áp dụng trong trường hợp bảo hiểm dài hạn mà NĐBH đã được hưởng.
    11. Nếu bảo hiểm được thu xếp cho một bên thứ ba thừa hưởng thì dưới danh nghĩa của NĐBH bên thừa hưởng quyền lợi (BTH) có quyền thực hiện các quyền hạn của NĐBH. Ngoài ra BTH cũng có quyền nhận bất cứ khoản bồi thường nào theo Đơn bảo hiểm này của NĐBH và chuyển giao các quyền hạn của NĐBH cho PTI mà không cần phải có sự chấp nhận của NĐBH ngay cả trong trường hợp BTH không sở hữu Đơn bảo hiểm này. Ngay sau khi thanh toán bồi thường, PTI có thể yêu cầu BTH xác nhận rằng họ đã đồng ý với các điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm này và NĐBH đã chấp nhận để họ nhận các khoản bồi thường theo Đơn bảo hiểm này.
    12. Một tháng sau khi xác định được toàn bộ số tiền phải bồi thường, PTI sẽ chi trả bồi thường. Tuy nhiên, một tháng sau khi PTI đã nhận được thông báo thích hợp về vụ tổn thất và đã thừa nhận trách nhiệm, NĐBH có thể yêu cầu PTI tạm ứng số tiền bồi thường tối thiểu phù hợp với hoàn cảnh thực tế tại thời điểm đó. Chừng nào số tiền bồi thường chưa được xác định hoặc xét thấy chưa cần tạm ứng theo yêu cầu của NĐBH thì việc tạm ứng bồi thường sẽ không được thực hiện.
    *                                                                                                                                                                                                                                                 PTI có quyền giữ lại số tiền bồi thường trong trường hợp :
    a)     Có sự nghi ngờ về quyền được nhận bồi thường của NĐBH chừng nào PTI chưa nhận được các bằng chứng cần thiết.
    b)     Đang có sự điều tra của cảnh sát hoặc công việc điều tra nào khác theo qui định của Luật hình sự đối với NĐBH mà các công việc điều tra này chưa kết thúc.
      V-TÁI BẢO HIỂM TRONG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
    *Tái bảo hiểm là hình thức phân tán những rủi ro đã được bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm gốc. Nhằm phát huy tối đa qui luật số đông để dàn mỏng, chia nhỏ những rủi ro đã được bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể các công ty tái bảo hiểm trên toàn thế giới. Chính vì lẽ đó mà một rủi ro mang tính chất tai hoạ khốc liệt hoặc có độ tích tụ cao vẫn được bảo hiểm .Đối với công ty bảo hiểm : tái bảo hiểm làm cho công ty có khả năng nhận bảo hiểm nhiều hơnvà giúp cho công ty bảo hiểm gốc có thể nhận được các dịch vụ mà vượt quá khả năngcủa mình ,ngoài ra nó còn tạo sự ổn địch trong quá trình kinh doanh ,củng cố khả năng tài chính của công ty bảo hiểm .
    Trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT có đặc điểm là giá trị tài sản bảo hiểm rất lớn do vậy khi kí những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn công ty PTI phải luôn xem xét để cần thiết phải tái đi cho các công ty bảo hiểm khác có khả năng tài chính lớn hơn. Các loại bảo hiểm như : bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu-bảo hiểm xây dựng (Contractor All Risks), bảo hiểm rủi ro lắp đặt(Erection All Risks),bảo hiểm TBĐT(Electronic Equipment).Công ty PTI áp dụng hợp đồng số thành kết hợp mức dôi (Quota Share-surplus).Tái bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT do phòng tái bảo hiểm của công ty PTI đảm nhận .


    Phần II

    THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM  BƯU ĐIỆN (GỌI TẮT LÀ PTI)

    I- VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY PTI

    Công ty PTI chính thức triển khai hoạt động từ ngày 01 .09. 1998 theo quyết định số 3633 /GP-UD của UBND thành phố Hà nội .Công ty PTI có một số chức năng chính như sau :
    - Kinh doanh trực tiếp các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong phạm vi của cả nước và quốc tế .
    - Kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
    - Tham mưu tư vấn cho các tổ chức kinh tế xã hội trong việc đánh giá và quản lí rủi ro .
    - Thực hiên các dịch vụ liên quan như: Giám định, điều tra tính toán, phân bổ tổn thất, đại lí giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ 3
    - Hoạt động đầu tư tài chính theo qui định của pháp luật
    - Giúp các tổ chức khách hàng bảo hiểm đào tạo cán bộ chuyên ngành bảo hiểm.
    Hoạt động của công ty dưới sự điều khiển của hội đồng quản trị sau đó đến giám đốc và các phó giám đốc .
    Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty PTI
    Phó giám đốc
     
    Phó giám đốc
     
    Hội đồng quản trị
     
     

    Phòng
    bảo hiểm
    tài sản kĩ
    thuật
     
    Phòng tái bảo hiểm
     
     











    Ở sơ đồ trên nổi bật lên là phòng bảo hiểm tài sản kĩ thuật có chức năng là chỉ đạo  và thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Một trong những nghiệp vụ ưu thế của phòng là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, nghiệp vụ này đã được triển khai từ rất lâu trên thế giới nhưng ở Việt nam thì đơn bảo hiểm thiết bị điện tử đầu tiên mới có từ cuối tháng 10 năm 1996 do BAO VIET cấp cho trung tâm kĩ thuật sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt nam. Đây là nghiệp vụ rất mới mẻ cho nên việc công ty PTI triển khai gặp không ít khó khăn .
    II-KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY PTI Ở NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
    1. Công tác khai thác :
      Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh bảo hiểm. Vì thế nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của công ty bảo hiểm nói chung và của từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng. Khâu khai thác bảo hiểm là việc huy động tập chung nguồn đóng góp từ các đơn vị tham gia bảo hiểm và được bổ xung một phần lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, khâu khai thác hình thành nên quĩ dự trữ bảo hiểm chi phối rất lớn đến hiệu quả kinh doanhcủa ngành bảo hiểm .
      Như chúng ta đã biết trước đây ở  Việt nam chỉ tồn tại một công ty bảo hiểm, đó là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam gọi tắt là BAO VIET. Khi đó khách hàng tham gia bảo hiểm không có cơ hội lựa chọn nơi mình muốn tham gia và việc độc quyền này gây nhiều bất lợi cho khách hàng, tuy nhiên từ cuối năm 1995 đã có sự ra đời của nhiều công ty bảo hiểm nên tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ và kết quả là có nhiều loại hình bảo hiểm mới ra đời và phát triển như bảo hiểm mọi rủi ro về tài sản, tổn thất lợi nhuận, các đơn bảo hiểm toàn diện và trách nhiệm tổng quát. Những mẫu đơn bảo hiểm chuẩn đang được áp dụng trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng được giới thiệu trên thị trường bảo hiểm Việt nam. Sự thay đổi nhanh chóng và đáng kể trên tạo nhiều ảnh hưởng tốt, khách hàng tham gia được chăm sóc chu đáo và quyền lợi được thực sự bảo đảm.
      Nắm bắt được tình hình trên, công ty PTI mới ra đời và triển khai ngay một nghiệp vụ rất mới đó là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Để có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường về nghiệp vụ mới này công ty PTI đã có chiến lược khách  hàng là mở rộng địa bàn hoạt động ra hầu hết bưu điện các tỉnh trên cả nước đồng thời đưa ra chính sách khách hàng hợp lí đặc biệt là chính sách    khách hàng lớn thể hiện trên các mặt ưu đãi phí bảo hiểm, tiền thưởng không có tổn thất hoặc ít tổn thất, về chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, về việc bồi thường.... Thực hiện chiến lược trên và phân công cụ thể cho từng cán bộ quản lí khách hàng, rà soát lại khách hàng trọng điểm, có tiềm năng để tập trung công sức, thường xuyên theo dõi để phản ánh với ban giám đốc nắm được tình hình khách hàng và những thông tin mới của đối tác đưa ra để thâm nhập thị trường.
    Sau đây là kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT của công ty PTI từ 01 tháng 9 năm 1998 đến 30 tháng 4 năm 1999
    Bảng 8: Tình hình khai thác bảo hiểm TBĐT tại công ty PTI
    Chỉ tiêu
    Đơn vị
    4 tháng cuối năm 1998
    4 tháng đầu năm 1999
    1.Số đơn bảo hiểm TBĐT
    Đơn
    9
    11
    2.Số tiền bảo hiểm
    -Lượng tăng tuyệt đối
    -Tốc độ phát triển liên hoàn
    Triệu đồng
    Triệu đồng
    %
    476.181,818
    604.000,000
    127.818,182
    126,84
    3.Số tiền bảo hiểm /1đơn cấp
    Triệu đồng
    52.909,090
    54.909,090
    4.Doanh thu từ phí bảo hiểm TBĐT
    -Lượng tăng tuyệt đối
    -Tốc độ phát triển liên hoàn
    Triệu đồng
    Triệu đồng
    %
    2.619,000
    3.322,000
    703,000
    126,84
    5.Doanh thu của công ty
    Triệu đồng
    4.365,000
    5.110,769
    6.Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm TBĐT/doanh thu công ty
    %
    60
    65
    *                    Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI
    *Nhận xét về kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT qua hai năm 1998 và 1999:
    **Về doanh thu phí
    Nhìn chung công ty mới đi vào triển khai hoạt động từ 01/09/1998 song cho đến nay công ty đã đạt được một số kết quả đáng chú ý. Đến hết năm 1998 công ty mới chỉ hoạt động được 4 tháng doanh thu từ phí của nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT là 2.619,000(triệu đồng), đây là con số không nhỏ xét về thời gian hoạt động, nó thể hiện được sự nỗ lực của cán bộ và nhân viên của công ty bước đầu khởi hành trên lĩnh vực mới mẻ này, đồng thời phần nào cũng phản ánh được sự chấp nhận của thị trường về sản phẩm này của công ty. Doanh thu từ nghiệp vụ này chiếm tỉ trọng 60% trong tổng doanh thu của cả công ty trong 4 tháng năm 1998.
    Đến ngày 30/04/1999 doanh thu phí từ nghiệp vụ này là 3.322,000 (triệu đồng) lớn hơn so với doanh thu 4 tháng năm 1998 là 703,000(triệu đồng). Điều này chứng tỏ rằng trong năm 1999 công ty đã có được nhiều kinh nghiệm hơn tong khâu tổ chức cũng như khai thác, tình độ của cán bộ ,nhân viên. Doanh thu ở nghiệp vụ này chiếm tỉ trọng 65% trong tổng doanh thu 4 tháng năm 1999. Tỉ trọng này tăng phản ánh doanh thu từ nghiệp vụ này đang có xu hướng chiếm phần lớn trong tổng doanh thu của công ty. Thêm vào đó nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT chiếm tỉ trọng cao thể hiện đây là một nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu của công ty PTI. Nếu ta so sánh doanh thu 4 tháng năm1998 và doanh thu 4 tháng năm 1999 ở nghiệp vụ này ta thấy: về số tuyệt đối năm 1999 tăng 703(triệu đồng )so với 4 tháng năm 1998. Về số tương đối tăng 26,84% tức bằng 1,26 lần của 4 tháng năm 1998 như vậy ta dễ dàng thấy rằng cả số tuyệt đối và số tương đối 4 tháng năm 1999 đều tăng hơn so với 4 tháng năm 1998.Kết quả này  đang dần chứng minh cho ta sự cần thiết và tính ưu việt của nghiệp vụ nà trên thị trường bảo hiểm Việt nam.
    * Xét về số đơn bảo hiểm đã cấp :
    Trong 4 tháng năm 1998 công ty PTI cấp được 9 đơn, đây là những hợp đồng đầu tiên về bảo hiểm TBĐT mà công ty đã kí kết được với khách hàng, những đơn này chủ yếu là do các bưu điện trong ngành thuộc cổ phần của công ty ngoài ra còn có thêm đơn của Đài phát thanh và truyền hình Việt nam được lấy từ đơn của BAO VIET để lại.
    Cho đến 30/04/1999 sau 4 tháng của năm 1999 số lượng đơn cấp tăng lên là 11 đơn, rõ ràng là có sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ nhân viên phòng Bảo hiểm Tài sản - kĩ thuật rất nhiều. Như vậy cùng một lượng thời gian như nhau, năm sau số đơn bảo hiểm đã tăng hơn năm trước hay cũng có nghĩa là số lượng khách hàng đã có sự chú ý tới nghiệp vụ này của công ty.
    *Về số tiền bảo hiểm :
    - 4 tháng năm 1998: Giá trị của đơn bảo hiểm này khá lớn, với số tiền là 478.181,818 (triệu đồng).
    *- 4 tháng năm 1999: số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ này là 604.000,000 (triệu đồng)  tăng 127.818,182 (triệu đồng) so với 4 tháng năm 1998 xét về tốc độ phát triển liên hoàn thì số tiền bảo hiểm đã tăng lên 26,84%. Đồng thời xét về số tiền bảo hiểm trung bình cho một đơn cấp cũng tăng lên tương ứng từ 52.909,090 (triệu đồng) năm 1998, lên đến 54.909,090 (triệu đồng) năm 1999. Để có cái nhìn tổng quát hơn về doanh thu phí bảo hiểm thiết bị điện tử trong thời gian 4 tháng của 2 năm 1998 và 1999
    Ta xem biểu đồ sau:
    Hình 1: Doanh thu phí bảo hiểm thiết bị điện tử 1998-1999
    Đơn vị: tỷ đồng


    b. Công tác giám định và bồi thường tổn thất .
    *Mỗi khi nhận được thông báo tổn thất, thì nhân viên của công ty sẽ cùng người được bảo hiểm tiến hành giám định thiệt hại. Giá trị thiệt hại của tài sản được bảo hiểm xác định theo giá trị tại thời điểm xảy ra tổn thất, dựa vào đó để xác định số tiền bồi thường một cách hợp lí. Ví dụ như: trong trường hợp một hạng mục được bảo hiểm nào đó bị phá huỷ, số tiền bồi thường mà công ty sẽ trả là giá trị thực tế của hạng mục đó ngay trước thời điểm xảy ra tổn thất, bao gồm cả cước phí vận chuyển thông thường, chi phí lắp ráp, thuế và các chi phí hải quan (nếu có) trong phạm vi các chi phí này đã bao gồm trong số tiền bảo hiểm. Giá trị thực tế này được tính toán bằng cách trừ đi giá trị thay thế của hạng mục đó 1 tỉ lệ khấu hao thích hợp .
    Đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài :công ty sẽ bồi thường bất kỳ một chi phí nào nếu chứng minh được rằng người được bảo hiểm đã bỏ ra trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày phát sinh sự cố nhằm mục đích duy nhất là phục hồi lại các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trở lại tình trạng bình thường, kể từ ngày xảy ra một sự được bồi thường, số tiền bảo hiểm đối với thời hạn bảo hiểm  còn lại sẽ giảm đi một lượng bằng số tiền bồi thường, trừ khi số tiền bảo hiểm sẽ lại được phục hồi lại như ban đầu.
    Số tiền bồi thường được giói hạn bởi  số tiền bảo hiểm  trừ đi mức khấu trừ theo thoả thuận. Sau cùng là xét duyệt hồ sơ bồi thường và thông báo cho khách hàng, hoàn chỉnh hồ sơ trình ban giám đốc. Sau khi thông báo ,nếu khách hàng chấp nhận thì chuyển cho kế toán tài vụ trả tiền bồi thường ,nếu không phải tìm hiểu lại và giải quyết cho thoả đáng.
    *Có thể nói, công ty PTI rất đề cao công tác giám định và bồi thường để chất lượng sản phẩm luôn được nâng cao.
    Sau đây là các bước công tác chủ yếu và nội dung cụ thể trong công tác giám định và bồi thường tổn thất của công ty PTI:

    Bước 1: Tiếp nhận và xử lý thông tin về tổn thất

    Trong bước này khi nhận được thông báo tổn thất người được bảo hiểm bằng các văn bản (hoặc qua điện thoại, hoặc qua các nguồn tin khác). Cán bộ công ty cần nắm ngay những thông tin cần thiết như:
    - Tên và địa chỉ của người thông báo tổn thất
    - Địa điểm, thời gian xảy ra tổn thất
    - Thông tin ban đầu về hậu quả thiệt hại
    - Đánh giá ban đầu về nguyên nhân tổn thất
    - Các biện pháp hạn chế tổn thất đã áp dụng
    Tuy nhiên để đảm bảo chính xác thì công ty phải kiểm tra thông tin vừa nhận được qua các nguồn tin khác như: công an, chính quyền sở tại, cấp chủ quản của đơn vị xảy ra tổn thất. Sau đó các cán bộ công ty báo cáo ngay cho cấp lãnh đạo trực tiếp  để đề xuất phương án xử lý hoặc chủ động xử lý thông tin về tổn thất với các vụ được phân cấp. Đối với các vụ tổn thất ước tính thiệt hại đến 50.000USD các đơn vị phải báo cáo ngay với công ty bằng văn bản.

    Bước 2: Công tác giám định

    Nếu vụ tổn thất xảy ra trên địa bàn thuộc đơn vị quản lý thì:
    Một là, đơn vị cử cán bộ giám định đến hiện trường nơi xảy ra tổn thất để thu thập đủ thông tin về vụ tổn thất, bao gồm các công việc cụ thể sau:
    - Ghi chép và thu thập đầy đủ thông tin, số liệu có liên quan đến hiện trường vụ tổn thất.
    - Thu thập vật chứng và lời khai nhân chứng.
    - Đề xuất, phối hợp với người được bảo hiểm và các cơ quan chức năng để áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế tổn thất.
    - Thu thập, tham khảo ý kiến của các bên có liên quan có mặt tại hiện trường (cảnh sát PCCC, đơn vị xảy ra tổn thất, chính quyền địa phương).
    - Lập biên bản hiện trường vụ tổn thất mô tả chi tiết hiện trường, sơ bộ diễn biến, dự đoán nguyên nhân, ước tính thiệt hại.
    Hai là, việc giám định được thực hiện gồm những việc sau:
    - Phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra, kết luận diễn biễn, nguyên nhân vụ tổn thất.
    - Thu thập đầy đủ hồ sơ, chứng từ liên quan đến việc xác định số lượng và giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm trức khi xảy ra tổn thấtl.
    - Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa chứng từ với những thông tin tài liệu thu thập được tại hiện trường vụ tổn thất để xác định chính xác mức độ thiệt hại. Từ đó lập biên bản giám định tổn thất.
    - Tuy nhiên, đối với những vụ tổn thất lớn hoặc đòi hỏi có kiến thức chuyên ngành hoặc theo yêu cầu của nhà tái bảo hiểm hoặc theo chỉ đạo của công ty thì việc giám định có thể sẽ do một tổ chức giám định độc lập thực hiện trên cơ sở hợp đồng giám định.
    -Thẩm quyền kí kết và thực hiện hợp đồng giám định của các đơn vị theo mức phân cấp bồi thường được qui định cụ thể ở phần phân cấp bồi thường. Trong những trường hợp cụ thể khi cần công ty có thể cử cán bộ giám định của công ty giúp các công ty tiến hành công tác giám định. Nhưng các đơn vị là người chủ trì và kí biên bản giám định vụ tổn thất .
    - Trong trường hợp cán bộ giám định của PTI không có mặt tại hiện trường xảy ra vụ tổn thất trong thời hạn ghi trong quy tắc bảo hiểm hoặc vì lý do cấp thiết phải dọn dẹp hiện trường và cơ quan chức năng thụ lý hồ sơ chuyển cho PTI, cán bộ giám định và đơn vị có nhiệm vụ tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến vụ tổn thất nếu có điểm nào không rõ phải xác minh, bổ xung bằng chứng cứ đủ tính pháp lý cần thiết.

    Bước 3: Lập hồ sơ tổn thất

    1. Trách nhiệm lập hồ sơ
    Các đơn vị có trách nhiệm xử lý thông tin tổn thất và lập hồ sơ đối với những vụ tổn thất xảy ra trên địa bàn đơn vị mình phụ trách. Căn cứ từng vụ việc cụ thể, nếu vượt phân cấp thuộc các đơn vị thì công ty có thể cử cán bộ nghiệp vụ trực tiếp giúp các đơn vị lập hồ sơ.
    2. Hồ sơ đối với các tổn thất theo đơn bảo hiểm thiết bị điện tử bao gồm:
    - Giấy yêu cầu bảo hiểm của người được bảo hiểm.
    - Danh mục tài sản được bảo hiểm.
    - Hoá đơn thanh toán phí bảo hiểm.
    - Hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
    - Giấy thông báo tổn thất của người được bảo hiểm.
    - Bản kê khai thiệt hại và các chứng từ chứng minh thiệt hại.
    - Biên bản hiện trường của các cơ quan chức năng hoặc của PTI
    - Các văn bản, phim ảnh và tài liệu khác có liên quan đến vụ tổn thất.
    - Biên bản giám định vụ tổn thất của PTI hoặc của tổ chức giám định độc lập PTI chỉ định hoặc do PTI và người  được bảo hiểm thoả thuận chỉ định.
    - Tờ trình đề xuất giải quyết bồi thường
    * - Thông báo bồi thường của PTI.

    Bước 4: Thủ tục xét giải quyết bồi thường

    1. Phân cấp xét giải quyết bồi thường .
              Khi có thông tin về các vụ tổn thất phải được giải quyết kịp thời và báo cáo đầy đủ với công ty sau khi cử cán bộ đến hiện trường nơi xảy ra vụ tổn thất . Riêng đối với những vụ tổn thất ước tính thiệt hại đến 50.000USD thì các đơn vị phải báo cáo ngay để công ty chỉ đạo kịp thời .
    * Việc phân cấp xét giải quyết bồi thường như sau :
    Căn cứ xét giải quyết bồi thường theo phân cấp đã được qui định . Các đơn vị chủ động xét, giải quyết bồi thường đối với các vụ tổn thất thuộc mức phân cấp nói trên, sau đó chuyển bản sao hồ sơ về công ty chậm nhất là 10 ngày kể từ khi chuyển tiền bồi thường cho người được bảo hiểm .
    Trong quá trình lập hồ sơ nếu xét thấy chắc chắn thuộc trách nhiệm bảo hiểm của công ty bảo hiểm Bưu Điện thì có thể tạm ứng tối đa đến 50% của số tiền dự kiến bồi thường cho người được bảo hiểm để tạo điều kiện cho việc ổn định sản xuất -kinh doanh của khách hàng, nâng cao uy tín của công ty bảo hiểm Bưu Điện trên thị trường bảo hiểm .
    * Mối quan hệ giữa các phòng chức năng trong việc xét giải quyết bồi thường:
    - Phòng nghiệp vụ chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị về việc lập hồ sơ, biên bản giám định, xác định phạm vi trách nhiệm bảo hiểm , đề xuất bồi thường và các công việc có liên quan đến việc giải quyết bồi thường (như tổ chức thanh lí thu hồi phế liệu, tổ chức sửa chữa tài sản bị hư hại, mua mới tài sản để thay thế tài sản bị tổn thất hoàn toàn trong trường hợp bồi thường bằng hiện vật...)
    Phòng kế toán - tài chính có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp của các chứng từ, kiểm soát giá cả để tham mưu cho lãnh đạo đơn vị giải quyết đúng đắn.
    1. Căn cứ xét bồi thường:
    * Tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm không?
    - Khiếu nại có thuộc phạm vi bảo hiểm không?
    - Có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không?
    - Xem xét thời hạn bảo hiểm
    * Xác định số tiền bồi thường cho tổn thất
    - Xác định thiệt hại thực tế (căn cứ biên bản giám định tổn thất, hồ sơ chứng từ chứng minh tổn thất).
    - Số tiền bảo hiểm (bảo hiểm có đúng giá trị hay dưới giá trị)
    - Mức miễn bồi thường
    - Phần vật tư, tài sản được thu hồi còn lại sau tổn thất, xác định trị giá.
    3. Thủ tục xét duyệt bồi thường
    * Xét duyệt
    + Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết các chi nhánh, văn phòng đại diện.
    - Cán bộ giám định lập phiếu đề xuất.
    - Trưởng phòng nghiệp vụ trình lãnh đạo.
    - Phòng kế toán kiểm tra chứng từ.
    - Giám đốc chi nhánh hoặc văn phòng đại diện quyết định bồi thường.
    - Đơn vị gửi bản sao hồ sơ cho Công ty thay cho báo cáo.
    * Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết của Công ty:
    - Trưởng phòng nghiệp vụ Chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trình giám đốc Công ty và chuyển toàn bộ hồ sơ về Công ty.
    - Phòng nghiệp vụ và phòng kế toán Công ty phối hợp theo chức năng quy định trình phương án giải quyết bồi thường.
    - Giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách khối quyết định
    * Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết của phòng nghiệp vụ Công ty:
    - Cán bộ giám định lập phiếu đề xuất
    - Phòng kế toán kiểm tra chứng từ
    - Khi phòng nghiệp vụ và phòng kế toán đã thống nhất thì trưởng phòng nghiệp vụ ký quyết định bồi thường cho người được bảo hiểm. Hồ sơ được chuyển cho phó giám đốc phụ trách khối để báo cáo.
    - Nếu có vướng mắc thì báo cáo phó giám đốc phụ trách khối xem xét quyết định. Trong trường hợp này bản thông báo bồi thường cho người được bảo hiểm do phó giám đốc ký hoặc có thẩm quyền cho trưởng phòng nghiệp vụ ký.
    4. Thời gian xét bồi thường
    *Đối với các vụ tổn thất dưới 50.000USD theo quy tắc của Bộ tài chính ban hành thì sau 30 ngày kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ công ty sẽ giải quyết xong bồi thường cho người được bảo hiểm.
    - Phòng nghiệp vụ xét hồ sơ làm tờ trình, biên bản giám định: 7 ngày kể từ khi nhận đủ hò sơ và trình lãnh đạo xét.
    - Chuyển phòng kế toán xem xét tính hợp pháp của chứng từ: 7 ngày.
    - Lãnh đạo xét duyệt hồ sơ lần cuối: 7 ngày
    - Làm thông báo bồi thường và đề nghị khách hàng chấp thuận.
    Đối với các vụ tổn thất có giá trị đến 100.000USD thời gian giải quyết bồi thường sẽ phụ thuộc vào việc cơ quan giám định trung gian hoặc Công ty nhân tái tham gia hay không.
    5. Thủ tục trả tiền bồi thường
    Căn cứ quyết định bồi thường của toàn quốc, giám đốc, phó giám đốc chi nhánh, văn phòng đại diện, trưởng phòng nghiệp vụ. Phòng kế toán của các đơn vị thực hiện chuyển ngay tiền bồi thường cho khách hàng. Đối với các vụ tổn thất của các khách hàng do chi nhánh hoặc văn phòng đại điện quản lý nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của công ty việc trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm do các chi nhánh hoặc các văn phòng đại diện thực hiện theo uỷ quyền của công ty.
    * Một số điểm cần lưu ý đối với những trường hợp bồi thường trên phân cấp của đơn vị:
    - Sau khi giám đốc công ty quyết định việc bồi thường, các đơn vị có trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết quyết định đó và báo cáo kịp thời ý kiến của khách hàng với công ty. Nếu khách hàng không chấp nhận thì đề nghị có công văn khiếu nại nêu rõ lý do, cung cấp thêm bằng chứng... Nếu xét thấy hợp lý thì các đơn vị bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ, báo cáo giám đốc quyết định điều chỉnh cho phù hợp.
    - Trước khi trả tiền bồi thường cho khách hàng, yêu cầu khách hàng phải làm thủ tục chuyển quyền bồi thường bên thứ ba cho PTI (nếu phát sinh thêm trách nhiệm).
    - Các đơn vị có trách nhiệm lập hồ sơ, thống kê tổn thất trên địa bàn và báo cáo định kỳ 6 tháng với Công ty.
    - Mọi việc xử lý, giải quyết bồi thường phải thực hiện kip thời, đúng thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng bảo hiểm hoặc trong Quy tắc bảo hiểm. Nghiêm cấm việc gây phiền hà, áp dụng chế tài một cách tuỳ tiện gây thiệt hại cho quyền lợi của khách hàng cũng như quyền lợi của công ty.



    Trên đây là một số bước chủ yếu trong quy trình giám định bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
    *Xét tình hình thực tế qua 4 tháng cuối năm 1998 và 4 tháng đầu năm 1999 có 3 vụ tổn thất xảy ra. Năm 1998 có hai vụ tổn thất, vụ thứ nhất là tổn thất xảy ra ở bưu điện tỉnh Đồng tháp với số tiền bồi thường là 12,268 (triệu đồng), vụ thứ hai là xảy ra tại bưu điện Phú Yên, số tiền bồi thường lên tới 210,336 (triệu đồng). Tổng cộng số tiền phải bồi thường năm 1998 là 222,6059 (triệu đồng). Sang năm 1999 có một vụ tổn thất xảy ra tại bưu điện tỉnh Ninh thuận số tiền mà công ty đã bồi thường là 332,29 (triệu đồng).
    c. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất :
    Nếu làm tốt công tác này không chỉ mang lại hiệu quả kinh doanh mà còn thực hiện được mục tiêu cao cả là mang lại an toàn về tài sản, tính mạng cho người tham gia bảo hiểm  làm cho họ yên tâm trong kinh doanh và nó còn thể hiện sự quan tâm của công ty đối với khách hàng.
    Ở nghiệp vụ bảo hiểm  thiết bị điện tử hàng năm công ty PTI trích ra 2% từ doanh thu phí bảo hiểm  để làm quĩ dự phòng và hạn chế tổn thất. Cụ thể là 4 tháng đầu hoạt động của năm 1998 công ty đã trích ra 52,380 (triệu đồng) và đến năm 1999 sau 4 tháng đầu năm cũng trích ra một khoản là 66,44 (triệu đồng).
    Bên cạnh đó công ty PTI còn cử cán bộ giảng giải cho khách hàng cách sơ cứu khi gặp hoả hoạn, ngập nước do mưa bão như giảm nhẹ độ ẩm trong phòng chứa thiết bị xuống dưới 40%, chuyển các thiết bị ra khỏi môi trường ẩm tới phòng chứa thích hợp và không được khởi động lại thiết bị .
    Những việc làm trên của công ty PTI đã tạo dược mối quan hệ thân thiết giữa khách hàng với công ty. Đồng thời làm giảm bớt số tiền chi phí hàng năm để bồi thường tổn thất.
    Sau đây ta xem xét kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty PTI ở nghiệp vụ bảo hiểm  thiết bị điện tử.

    *                    Bảng 9: Hiệu quả và kết quả kinh doanh bảo hiểm thiết bị điện tử năm 1998
    *                    và năm 1999
    Chỉ tiêu
    Đơn vị
    4 tháng cuối năm1998
    4 tháng đầu năm1999
    1.Tổng doanh thu phí bảo hiểm  thiết bị điện tử
    triệu vnđ
    2.619,000
    3.322,000
    2.Chi hoạt động
    -Chi bồi thường
    -Chi hoa hồng
    -Chi dự trữ  tổn thất lớn
    - Chi tuyên truyền quảng cáo
    -Chi tái bảo hiểm
    -Chi đề phòng hạn chế tổn thất
    -Chi quản lí
    -Chi thuế
    Tổng chi

    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ
    triệu vnđ

    222,605
    130,950
    225,234
    36,666
    785,700
    52,380
    130,950
    104,760
    1689,245

    332,200
    166,100
    285,692
    46,508
    996,600
    66,440
    166,100
    332,200
    2.391,840
    3.Cơ cấu chi
    -Chi bồi thường
    -Chi hoa hồng
    -Chi dự trữ  tổn thất lớn
    - Chi về tuyên truyền quảng cáo
    -Chi tái bảo hiểm
    -Chi đề phòng hạn chế tổn thất
    -Chi quản lí
    -Chi thuế

    %
    %
    %
    %
    %
    %
    %
    %
    100
    13,17
    7,75
    13,33
    2,17
    46,51
    3,1
    7,75
    6,20
    100
    13,89
    6,94
    11,94
    1,95
    41,66
    2,79
    6,94
    13,89
    4.Tổng chi /doanh thu
    %
    64,49
    72
    5.Chênh lệch thu chi
    triệu vnđ
    929,775
    930,160
    6.Hiệu quả kinh tế
    -Doanh thu/ giá thành
    -Lợi nhuận /giá thành


    1,55
    0,55

    1,388
    0,388
    Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI
    (1) Doanh thu bảo hiểm
    *Nhìn vào bảng 9 ta thấy doanh thu bảo hiểm thiết bị điện tử đã tăng đáng kể cùng với một lượng thời gian như nhau sau 2 năm 1998 và 1999 là 703 (triệu). Để có được kết quả như vậy công ty PTI nói chung và phòng bảo hiểm tài sản Kĩ thuật nói riêng đã cố gắng hết sức để khai thác được nhiều đơn bảo hiểm mới, tạo điều kiện tăng doanh thu năm sau cao hơn năm trước.
    (2). Chi hoạt động :
    Nhìn chung qua bảng 9 ta thấy các khoản chi hầu như có xu hướng tăng về số tuyệt đối.
    * - Trong 4 tháng đầu mới triển khai do phải bồi thường 2 vụ tổn thất nên mức chi bồi thường là 222,605(triệu đồng). Sang đến năm 1998 lại có thêm vụ tổn thất là phải bồi thường cho bưu điện tỉnh Ninh thuận số tiền là 332,2(triệu đồng).
    - Chi hoa hồng xét về số tuyệt đối tăng từ 130,950 (triệu đồng) năm1998, đến 166,1 (triệu đồng) năm 1999. Nhưng tỉ lệ hoa hồng /tổng chi lại giảm :
      4 tháng năm 98: 7,75%
      4 tháng năm 99: 6,94%
    Đó là do tình trạng hiện nay hầu hết các đơn về bảo hiểm TBĐT mà công ty cấp đều do cán bộ nhân viên phòng bảo hiểm Tài sản -kĩ thuật trực tiếp khai thác mà không phải qua môi giới. Đây là một trong những thuận lợi lớn cho công ty PTI, nhất là những thiết bị có giá trị lớn cần phải tái bảo hiểm. trong trường hợp mà phải thông qua môi giới thì số hoa hồng phải trả cho người môi giới đôi khi rất lớn làm giảm số lợi nhuận của công ty.
    - Tiếp đến là chi đề phòng hạn chế tổn thất cũng tăng cụ thể là năm 1998: là 52,38(triệu đồng) sang đến năm 1999 tăng lên là 66,44(triệu đồng), tuy nhiên tỉ lệ chi lại giảm xuống từ năm 1998 là 2,86% đến năm 1999 còn 2,79 %.Điều này công ty PTI cần xem xét lại vì chi phí đề phòng hạn chế tổn thất đóng một vai trò hết sức quan trọng góp phần nâng cao tính hiệu quả kinh doanh hạn chế bồi thường  giảm tổn thất cho người tham gia .
    - Nhìn vào bảng 9: Chi dự trữ tổn thất lớn tăng về số tuyệt đối  nhưng lại giảm về tỉ lệ chi. Cụ thể là năm 1998 số tiền chi là 225,234 (triệu đồng) nhưng đến năm 1999 tăng lên là 285,692 (triệu đồng) và tỉ lệ chi giảm từ 13,33% xuống còn 11,94%. Lí do tỉ lệ chi này giảm xuống là do năm 1999 cơ cấu chi thay đổi đặc biệt là chi thuế có phần tăng lên do Bộ tài chính áp dụng luật thuế giá trị gia tăng (VAT).
    - Chi tuyên truyền quảng cáo: Đối với nghiệp vụ thiết bị điện tử là nghiệp vụ mới nhưng có đặc điểm là ở những đơn vị có loại thiết bị này thường tập trung vào một số khách hàng lớn. Do vậy hình thức quảng cáo hiện nay ở công ty Bảo hiểm bưu điện là giới thiệu trực tiếp với khách hàng bằng việc phát hành tài liệu hướng dẫn đồng thời giải thích tỉ mỷ cho khách hàng về loại hình nghiệp vụ này. Do vậy chi phí quảng cáo so với tổng chi còn ở mức khiêm tốn. Cụ thể là qua bảng 12 ta thấy năm 1998 về số tuyệt đối chi quảng cáo là 36,666 triệu đồng. Nhưng đến năm 1999 thì lượng chi này đã tăng lên 46,508 triệu đồng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ chi lại có xu hướng giảm từ 2,17% xuống còn 1,95%. Điều này một phần là do ảnh hưởng của thuế VAT nhưng công ty PTI cũng cần xem xét lại để nâng tỷ lệ chi quảng cáo lên một tỷ lệ thích hợp nhằm tạo điều kiện cho việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm của công ty cho khách hàng biết. Khi đã có số đông công chúng biết về vai trò và tác dụng của sản phẩm này thì đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử chắc chắn sẽ tăng lên không chỉ ở trong cổ đông mà còn cả ngoài cổ đông nữa.
    - Cũng qua bảng 9 ta thấy chi tái bảo hiểm tăng về số tuyệt đối từ 785,7(triệu đồng) năm 1998 lên đến 996,6(triệu đồng) năm 1999. Điều này chứng tỏ phí bảo hiểm thu được trên mỗi đơn của năm 1999 lớn hơn của năm 1998 nên phần chi phải tăng lên. Nhưng xét về tỉ lệ chi thì lại có phần giảm xuống, năm 1998 tỉ lệ chi là 46,51% đến năm 1999 giảm xuống còn 41,66%.
    - Chi quản lí cũng tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm về số tương đối. Năm 1998 chi cho quản lí là 130,950(triệu đồng) sang đến năm 1999 chi quản lí là 166,1(triệu đồng) .Tỉ lệ chi giảm từ 7,75% xuống 6,94%.
    - Cuối cùng là chi thuế. Khoản chi này tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỉ lệ chi và đặc biệt là tăng rất nhanh gấp hơn 3 lần năm trước. Cụ thể là ở năm 1998 chi về thuế là 104,76 (triệu đồng) nhưng đến năm 1999 con số này tăng lên 332,2 (triệu đồng). Về tỉ lệ chi cũng tăng từ 6,2% lên đến 13,89%. Nguyên nhân là do năm 1998 vẫn áp dụng thuế doanh thu nên mức thuế thấp (4% doanh thu phí) nhưng từ ngày 01/01 1999 Bộ tài chính đã ban hành luật thuế giá trị gia tăng (VAT) với mức thuế cao hơnlà 10% tính trên doanh thu phí điều này làm cho công ty gặp không ít khó khăn trong việc chi phí hợp lí .
    (4).Xét về tỉ lệ tổng chi/ doanh thu:
    Năm 1998 tỉ lệ tổng chi /doanh thu ở mức 64,49% sang đến năm 1999 tỉ lệ này tăng lên 72%. Điều này là do áp dụng luật thuế mới, đồng thời là chi bồi thường cũng tăng cao hơn năm 1998.
    (5).Kết quả kinh doanh :
    * Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty là tốt, nhìn vào bảng chỉ tiêu doanh thu tăng dần năm 1998 là 2619(triệu đồng), năm 1999 là 3322(triệu đồng).
    Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận năm 1999 tăng không lớn so với năm 1998 cụ thể là năm 1998 là 929,775 (triệu đồng) đến năm 1999 là 930,160 (triệu đồng). Điều này có nguyên nhân trực tiếp từ việc chi thuế năm 1999 lớn hơn nhiều so với chi thuế năm 1998 ( gấp 3,17 lần ).
    (6).Hiệu quả kinh doanh :
    Nhìn vào chỉ tiêu 6 ở bảng 9 ta thấy hiệu quả kinh doanh không được tốt lắm và có xu hướng giảm.
    Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,55đ doanh thu
    Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,388đ doanh thu
    Về lợi nhuận:
    Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,55đ lợi nhuận
    Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,388đ lợi nhuận
    * Để hiểu được sâu sắc hơn do đâu mà công ty có được kết quả tốt cũng như những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của mình ở nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT ta đi tìm nguyên nhân của nó :
    Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên :
    Chúng ta phải khẳng định rằng khai thác là khâu quan trọng hàng đầu trong mọi loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TBĐT nói riêng .Doanh thu muốn đạt được ở mức cao tất yếu khai thác phải được nhiều bởi thế ta đi tìm nguyên nhân cho doanh thu cao cũng chính là tìm nguyên nhân từ khâu khai thác :
    +Bảo hiểm TBĐT là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và đầy triển vọng trong tương lai nên các cán bộ nhân viên trong công ty tin tưởng vào sự phát triển của lĩnh vực này từ đó tạo nên cho họ một động lực thúc đẩy họ hăng say làm việc, nỗ lực phấn đấu vươn lên .Họ đã làm việc không kể ngày đêm ,đi khai thác vào mọi thời điểm ... các cán bộ nhân viên công ty luôn cố gắng tìm ra những phương pháp tiếp cận, khai thác mới nhất để tăng thêm số khách hàng cho mình.
    +Công ty PTI nghiên cứu sản phẩm bảo hiểm TBĐT một cách kĩ lưỡng có cơ sở khoa học đồng thời tiến hành đánh giá thị trường bảo hiểm TBĐT theo tổng thể theo từng thành phố, tỉnh và khu vực từ đó nắm lấy thị trường,ở chỗ nào có nhu cầu lớn nhất hiện tại, hoặc có tiềm năng lớn trong tương lai. Đồng thời chủ động sáng tạo áp dụng nhiều phương pháp khác nhau và kịp thời đúc kết kinh nghiệm để tìm ra phương pháp khai thác hợp lí nhất ,điều này được thể hiện: Hàng tuần công ty luôn họp giao ban vào sáng thứ 2 để thảo luận kiến nghị đưa ra những cách thức,phương pháp khai thác, tiếp cận khách hàng phù hợp nhất.
    +Công ty PTI đã tuyển chọn và đào tạo đượcmột đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực hầu hết đã có kinh nghiệm thực tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó họ rất sáng tạo trong công việc và luôn luôn có ý chí vươn lên khắc phục mọi khó khăn, vì vậy họ đã tìm ra nhiều phương pháp khai thác tốt đối với từng đối tượng khách hàng .
    +Một điểm rất quan trọng tác động đến kết quả khai thác ở nghiệp vụ này là ưu thế của công ty kinh doanh trong ngành Bưu điện nên phần lớn các thiết bị điện tử  đều tập chung vào phạm vi khai thác của công ty. Hơn nữa các cổ đông như Tổng công ty xây dựng, Tổng công ty xuất nhập khẩu, Công ty tái bảo hiểm Việt nam ... có mối quan hệ rộng rãi tạo tiền đề vững chắc cho những mối quan hệ làm ăn lâu dài của công ty .
    +Nguyên nhân cuối cùng là có sự chỉ đạo kịp thời của công ty, sự quyết tâm của ban giám đốc và sự nỗ lực của phòng bảo hiểm Tài sản -Kĩ thuật .
    *Những khó khăn đang tồn tại :
    +Đối tượng khách hàng tương đối hạn chế trong giai đoạn đầu triển khai nghiệp vụ (chỉ một số đơn vị có khối lượng tài sản TBĐT cao như Đài phát thanh và truyền hình ,Bưu điện ,bệnh viện ...) Các văn phòng làm việc, các cá nhân có sử dụng một số TBĐT (như máy vi tính , điện thoại ,các thiết bị văn phòng khác ...) hầu như chưa có nhu cầu bảo hiểm cho thiết bị của họ hoặc họ chỉ  bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy.
    +Loại hình bảo hiểm này còn mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp và thậm chí đây là loại bảo hiểm còn mới mẻ ngay cả với các cán bộ khai thác ở các địa phương ở vùng sâu vùng xa ... Hơn nữa loại hình bảo hiểm này tương đối phức tạp, phạm vi bảo hiểm rất rộng, các cán bộ địa phương cần có thời gian nghiên cứu kĩ các tài liệu hướng dẫn của công ty. Vì thế họ ít nhiều có tâm lí ngại khai thác loại hình bảo hiểm này, mà chỉ thích khai thác các nghiệp vụ đã quen thuộc như bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu... Một lí do khác nữa là, việc điều tra rủi ro trước khi chấp nhận bảo hiểm và điều tra đánh giá tổn thất khi có khiếu nại theo đơn bảo hiểm TBĐT phức tạp hơn rất nhiều so với đơn bảo hiểm cháy vì thế bản thân công ty PTI cũng rất thận trọng khi cho phép các địa phương cấp đơn bảo hiểm này .
    +Vì đơn bảo hiểm này bảo hiểm rất nhiều rủi ro nên đương nhiên phí bảo hiểm phải cao hơn đơn bảo hiểm cháy .Ví dụ cùng một đối tượng rủi ro thì đơn bảo hiểm cháy có thể từ 0.2% đến 0,3% nhưng theo đơn bảo hiểm TBĐT có thể lên đến 0,4%đến 0,6% hoặc có thể cao hơn .Từ đó mà một số cơ quan, doanh nghiệp chưa nhận thức được chính xác những rủi ro điển hình đối với bảo hiểm TBĐT của họ cộng với những nhận thức về bảo hiểm còn hạn chế khiến họ quyết định mua những loại bảo hiểm khác với số phí ít hơn nhằm "tiết kiệm" được chi phí .
    + Phần lớn các đơn vị có khối lượng tài sản lớn đều là đơn vị nhà nước, một số các đơn vị liên quan đến chuyển tải thông tin vẫn còn chế độ bao cấp của nhà nước ,khi thiết bị mà hỏng hóc thì được trang bị ngay cái khác (vì việc duy trì mạng thông tin liên lạc liên quan đến an ninh quốc gia). Vì vậy ý thức mua bảo hiểm để tự bảo vệ mình của những đơn vị này rất kém .
    +Cuối cùng là cơ sở hạ tầng của Việt nam còn quá kém ,khối lượng các thiết bị có thể bảo hiểm theo đơn bảo hiểm TBĐT là rất ít .Thậm chí có những đơn vị nghe tên tưởng khối lượng TBĐT của họ phải rất lớn nhưng thực tế chỉ có khoảng vài tỉ đồng (ví dụ như đàI phát thanh và truyền hình các huyện )

    Phần III
    MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY PTI

    I. TRIỂN VỌNG VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN TỬ TIN HỌC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THẾT BỊ ĐIỆN TỬ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN
    Trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ở thế kỉ tới, khoa học thông tin tiếp tục phát triển mau lẹ và được ứng dụng rộng rãi . Các nhà khoa học cho rằng sự phát triển mau chóng của máy tính điện tử, của thông tin liên lạc sẽ nối liền các nước trên thế giới, sẽ trở thành mạng tài nguyên thông tin phủ khắp tòan cầu . Theo dự báo của các nhà khoa học đến năm 2005 số hộ dùng hòm thư điện tử sẽ đạt tới trên 800 triệu hộ . Mặt khác vô tuyến truyền hình đã được phát qua vệ tinh làm cho người xem cảm thấy rõ nét và trung thực mặc dù đó là những thông tin ở cách xa hàng vạn km . Mạng điện thoại di động và điện thoại hiện hình, hệ thống thông tin công cộng, hệ thống đường dây nóng phục vụ thương nghiệp nối liền làm thành một “không gian vũ trụ hoàn toàn mới".
    *          Ngày nay hoạt động kinh tế trở nên vô cùng phức tạp, không chỉ có trao đổi hàng hoá thông thườngmà kinh tế ngày nay phụ thuộc vào sự trao đổi thông tin . Thật vậy, sự ra đời và lớn mạnh của không gian điện tử làm người ta có thể thông qua những cuộc “hội thảo điện tử “ để tham gia các hội nghị về  nghiệp vụ . Các bưu kiện điện tử thay thế mau chóng bưu kiện truyền thống . Trên màn hình của máy tính tính tại nhà có thể nhận được các tiết mục vui chơi, các cuộc đấu bóng, các tiết mục giải trí để chọn xem . Thông qua mạng viễn thông có thể tiếp thu những bài giảng của các giáo sư ưu tú, sự chẩn đoán và điều trị của các chuyên gia hàng đầu, thoả mãn về hướng dẫn mua bán và sắm sửa các dụng cụ gia đình, y hệt như đến văn phòng giao dịch, đến nhà hát, đến bệnh viện và cửa hàng mua bán . Theo dự tính đến năm 2015, Ti vi màn hình rộng và mỏng có độ nét cao sẽ được chế nghiệm thành công, có thể treo lên tường giống như một bức tranh . Thực tế công ty Motorolla (Mỹ) đã phóng 66 hệ thống vệ tinh và các hệ thống vệ tinh này đảm bảo các cá nhân có thể nói chuyện thuận lợi với bất cứ ai ở trên trái đất, chuyện “mất liên lạc”sẽ trở thành chuyện lịch sử .
      Trên đây là một vài minh hoạ cho tiềm năng và vai trò của thông tin liên lạc trong thời gian tới. Qua đó ta có thể thấy rằng trong thời gian tới chắc chắn bảo hiểm thiết bị điện tử  ở Việt nam rất có triển vọng. Vì vậy ta phải đánh giá được tiềm năng thị trường và dự báo được tương lai phát triển của thị trường ta mới có thể có được những lựa chọn và áp dụng đúng được các phương án maketing và bán sản phẩm thích hợp từ đó mới đạt được mục đích cuối cùng là phát triển sản phẩm cả về số lượng và chất lượng . Để đạt được mục đích đó trước hết ta phải có đủ các dữ kiện thích hợp để tính toán được tiềm năng thị trường và dự báo phát triển trong tương lai. Những dữ kiện đó là: dữ kiện về thị trường bảo hiểm thiết bị điện tử, thị trường bảo hiểm để từ đó xác định được phí thu tiềm năng đối với các sản phẩm bảo hiểm thiết bị điện tử .
    *          Để tính được phí thu tiềm năng có thể dựa vào công thức sau :
    Phí thu tiềm năng = Tổng giá trị  thiết bị điện tử  đã lắp đặt * Tỉ lệ phí
    Mục đích nghiên cứu thị trường thiết bị điện tử là lấy số liệu với các tham số tuổi thọ trung bình của các thiết bị ta sẽ suy ra được tổng khối lưoựng thiết bị điện tử đã lắp đặt từ đây với các dữ kiện đã biết về thị trường bảo hiểm Việt nam có thể suy ra được tỉ lệ các thiết bị điện tử  có thể tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử, với tỉ lệ phí trung bình, ta dễ dàng tính toán được tiềm năng thị trường về mặt lí thuyết (phí tiềm năng).
      Theo tạp chí Tin học cho biết :
      Nhiều gia đình ở Việt nam hiện nay có nhu cầu mua máy tính cá nhân để làm việc và học tập. Đồng thời do việc phát triển công nghệ mạng diện rộng, mạng internet và intranet đã làm cho văn phòng làm việc có thể cơ động được, số người hoà mạng ngày càng tăng .Khi các cơ quan, công ty đã triển khai dự án lớn về công nghệ thông tin thì công việc của họ ngày càng gắn bó với kho thông tin. Do đó tình hình hiện nay tiếp tục đẩy cầu công nghệ thông tin lên cao nữa.

    * Bảng 10 : Số máy tính hiện có ở Việt nam từ năm 1993 đến 1998
    Năm
    1993
    1994
    1995
    1996
    1997
    1998
    Máy tính (chiếc)
    22500
    38000
    60000
    93000
    139500
    299000
    *          Từ bảng trên ta thấy số máy tính được sử dụng ngày càng nhiều . Hơn nữa không chỉ có lĩnh vực máy tính, mà trong những năm vừa qua ngành Bưu chính Viễn thông đã có kết quả phát triển mạng lưới rất khả quan : tính đến cuối năm 1997 mật độ điện thoại trên 100 dân tăng 9,5 lần, số máy điện thoại tăng 6 lần, sản lượng điện thoại đường dài trong nước tăng 45, lần sản lượng điện thoại quốc tế tăng 16 lần so với năm 1991 và đã góp phần tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông khá toàn diện với công nghệ mới theo hướng số hoá, tự động hoá ngang tầm với các nước trong khu vực:
    * Bảng 11: Bảng tổng hợp về kết quả phát triển mạng lưới

    Các chỉ tiêu

    ĐVT
    1991
    1992
    1993
    1994
    1995
    1996
    1997
    1. Mật độ điện thoại
    máy/  100 dân
    0,21
    0,26
    0,39
    0,64
    0,64
    1,56
    2,0
    2. Máy điện thoại
    máy
    139.000
    181.000
    273.000
    472.000
    774.910
    1077820
    1493820
    3. Sản lượng điện thoại đường dài trong nước
    triệu phút
    32,2
    119,3
    234,6
    449,0
    760
    860
    1442
    4. Sản lượng điện thoại quốc tế
    triệu phút
    8,1
    14,3
    19,9
    32,8
    44,5
    51,7
    52,6
    5. Số kênh đi quốc tế
    kênh
    409
    659
    950
    1647
    2972
    4171
    5000
    6. Số huyện có tổng đài điện tử
    huyệnh

    92
    200
    381
    495
    100%
    100%
    7. Số tỉnh có tổng đài điện tử số
    tỉnh
    7/53
    27/53
    53/53
    53/53
    53/53
    63/63
    63/63
    8.Tổng số xã có máy điện thoại
    780
    1018
    1603
    3914
    5115
    6000
    6600
    Nguồn: Tạp chí Bưu chính viễn thông năm 1997

    * Bảng 12: Các hợp đồng hợp tác kinh doanh nhằm xây dựng và khai thác mạng điện thoại cố định tại Việt Nam
    Tên nhà đầu tư nước ngoài
    Nhà khai thác Việt Nam
    Ngày ký cam kết hợp đồng hợp tác kinh doanh
    Số đường
    Khu vực
    Số vốn phía nước ngoài góp (triệu USD)
    Korea  Telecom Hàn quốc
    VNPT
    1994 được chấp thuận 1996
    40.000
    Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương
    40
    France Telecom Pháp
    VNPT
    1997
    540.000
    TP HCM
    467
    Telstra úc
    VNPT
    1998
    Hơn 35.000 đường nội hạt đường dài và quốc tế
    TP HCM, Hà Nội
    >150
    NTTI Nhật
    VNPT
    1997
    240.000
    Hà Nội
    194,4
    Cable & Wireless Anh
    VNPT
    Hè 1998
    250.000
    Hà Nội
    204
    Nguồn: BWCS - Tạp chí Bưu chính viễn thông 2/1999
    Ngoài lĩnh vực về máy tính và bưu chính viễn thông  thì các lĩnh vực khác như thiết bị y tế, thiết bị thông tin liên lạc và rada, thiết bị tự động sẽ ngày một phát triển hơn.
    Như vậy rõ ràng là tiềm năng của thị trường thiết bị điện tử là rất to lớn. Để có cái nhìn cụ thể hơn ta có thể tham khảo nghiên cứu tài liệu của Bảo  việt về ước tính tổng giá trị lắp đặt từ những năm 1993 - 1997 như sau:
    Bảng 13: Tổng giá trị lắp đặt từ năm 1993-1997
    Đơn vị tính: 1000USD
    Chủng loại thiết bị điện tử
    Năm
    Tổng cộng
    1993
    1994
    1995
    1996
    1997
    EDP

    72.9000
    81.000
    90.000
    100.000
    343.900
    TB văn phòng


    16.200
    18.000
    20.000
    54.200
    TB tự động
    6.561
    7.290
    8.100
    9.000
    10.000
    40.951
    TB y tế
    13.122
    14.580
    16.200
    18.000
    20.000
    81.902
    TB TTLL, ra đa
    19.683
    21.870
    24.300
    27.000
    30.000
    122.853
    TB viễn thông
    26.244
    29.160
    32.400
    36.000
    40.000
    163.804
    Tổng





    807.610
    Nguồn: Số liệu Bảo việt Hà Nội
    *Hiện nay tổng số lắp đặt các thiết bị mà có thể bảo hiểm theo đơn bảo hiểm thiết bị điện tử chiếm 15%. Đồng thời áp dụng tỉ lệ phí theo thị trường đối với các thiết bị trên ta có:
    - Phí đối với EDP                      : 0,35%
    - Phí thiết bị văn phòng             : 0,7%
    - Phí viễn thông                         : 0,40%
    - Phí thiết bị thông tin liên lạc   : 0,6%
    - Phí thiết bị y tế                        : 0,75%
    - Phí thiết bị tự động                           : 0,45%
    Từ đây ta có thể tính được tổng số phí tiềm năng thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử ở Việt Nam là: 
    Phí tiềm năng = Tổng giá trị lắp đặt x 15% x tỷ lệ phí = 566.090USD
    (tương đương với 6793.000.000VNĐ)
    Đến tháng 5/1998 riêng Bảo việt Hà Nội mới khai thác được 578.051.000 VNĐ tức là mới khai thác được 8,5% thị trường (578.051.000/6.793.000.000).
    * Điều này chứng tỏ thị trường bảo hiểm thiết bị điện tử còn bỏ ngỏ do đó công ty PTI cần đưa ra phương án thiết thực để khai thác tối đa tiềm năng thị trường.
    Phương hướng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử thời gian tới của Công ty PTI:
    Công ty bảo hiểm PTI đã và sẽ triển khai các sản phẩm sau: máy móc văn phòng, thiết bị xử lý dữ liệu điện tử, các thiết bị truyền thanh truyền hình, các thiết bị viễn thông, các thiết bị kiểm tra đo đạc và tự động, các thiết bị điện tử sử dụng trong y tế, các thiết bị điện tử trong các ngành công nghiệp khác.
    Sau đây là những phương hướng triển khai của công ty PTI đối với từng loại hình thiết bị này trong tương lai.
    * Bảo hiểm cho các thiết bị máy tính
    *Theo kinh nghiệm từ nước ngoài về bảo hiểm thiết bị điện tử, việc phát triển sản phẩm qua hệ thống đại lý là các hãng sản xuất và cung cấp thiết bị điện tử là rất quan trọng, ở Việt Nam hiện nay có các đại lý như: FPT, ACER, IBM, Lạc việt...
    Tất cả các đại lý máy tính trên có thể làm trung gian cho công ty bảo hiểm thu phí và khi có sự có tổn thất xảy ra đối với các thiết bị thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho người tham gia thông qua các đại lý này. Nếu làm đựoc điều này thì công ty bảo hiểm PTI sẽ rất nhàn vì mọi công việc liên quan đến người tham gia các đại lý được các đại lý xử lý rồi, đồng thời người được bảo hiểm cũng rất tiện lợi vì chỉ liên hệ với 1 người khi có tổn thất.
    Hiện nay mặc dù công ty PTI chưa áp dụng được ngay nhưng cần có ý tưởng qua kinh nghiệm từ nước ngoài để phát triển sản phẩm này.
    * Bảo hiểm các thiết bị văn phòng khác:
    Có thể ta cũng sẽ khai thác nghiệp vụ thông qua các đại lý cung cấp sản phẩm. Hoặc là sẽ khai thác trực tiếp tại các văn phòng làm việc nước ngoài và các bên liên doanh, nơi có khối lượng thiết bị văn phòng mang giá trị lớn và ý thức bảo hiểm cao.
    * Các đài truyền hình trung ương và địa phương:
    Những cơ quan này có khối lượng tài sản thiết bị điện tử lớn, hiện tại công ty PTI mới khai thác đuợc một phần nhỏ. Vì vậy trong thời gian tới cần khai thác tối đa mảng này. Nếu họ đã tham gia theo đơn bảo hiểm cháy thì công ty cần thuyết phục để chuyển dần sang bảo hiểm theo đơn bảo hiểm thiết bị điện tử vì phạm vi bảo hiểm rộng hơn, khách hàng được bảo vệ tốt hơn, về phía công ty cũng tăng doanh thu phí hơn.
    * Bảo hiểm thiết bị viễn thông, thông tin liên lạc:
    Hiện nay thiết bị viễn thông và thông tin được đầu tư tăng đáng kể. Vì vậy khai thác được những thiết bị này sẽ là điều kiện tiên quyết cho công ty tăng được thị phần của mình ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Một trong những thiết bị viễn thông quan trọng nhất ở Việt Nam hiện giờ là hệ thống vệ tinh, do đó công ty PTI cũng đã phối hợp với công ty bảo hiểm Groupama-GAN của Pháp tổ chức hội thảo để triển khai nghiệp vụ này. Ngày 12/5/1999 công ty PTI và đại diện của tổng công ty bưu chính viễn thông (VNPT), VINASAT, Bộ Tài chính và Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) đã tới dự hội thảo để trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật của nước ngoài trong việc thực hiện bảo hiểm vệ tinh của công ty PTI.
    II. KIẾN NGHỊ:
    Nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử là nghiệp vụ hoàn toàn mới mẻ không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm mà còn cả đối với cán bộ của công ty PTI. Do đó bước đầu triển khai hoạt động tất nhiên là sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Công ty mới hoạt động được hơn 8 tháng, ở nghiệp vụ này công ty khai thác khá thành công so với toàn bộ các sản phẩm khác của công ty, đem lại được kết quả đáng chú ý, song bên cạnh những thành quả đó vẫn đang tồn tại một số vấn đề, chính nó là những vướng mắc có thể là nguyên nhân cản trở sự phát triển của công ty. Khắc phục những khó khăn ấy có thể giúp công ty phát triển nghiệp vụ này trên thị trường Việt nam một cách mạnh mẽ .Là một sinh viên thực tập tại công ty PTI, sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử để hiệu quả kinh doanh ngày càng tốt hơn, em xin đưa ra một số kiến nghị sau :
    1-Về công tác khai thác :
    Để khai thác có hiệu quả công ty nên chú ý vào những vấn đề như :
    1.1.Vấn đề tuyên truyền quảng cáo :
    *Tuyên truyền quảng cáo là bộ phận quan trọng của marketing bảo hiểm nhằm giới thiệu rộng rãi hoạt động của các nghiệp vụ bảo hiểm cho khách hàng biết đồng thời làm cho họ thấy lợi ích của việc tham gia các nghiệp vụ bảo hiểm này để từ chỗ bàng quan, do dự chuyển sang quyết định tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới của công ty như nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
    Để tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cao cần tiến hành có tổ chức, chỉ huy thống nhất, để tránh những thiếu sót, lãng phí có thể xảy ra. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử thì phương tiện quảng cáo có thể là các tờ rơi, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, kèm theo Bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm... Những tài liệu này nên đưa đến tận tay khách hàng để họ tìm hiểu được những ích lợi của việc tham gia.
    *Ngoài việc tuyên truyền quảng cáo và nâng cao uy tín của công ty, bằng mọi cách công ty phải luôn giữ được mối quan hệ gắn bó với các khách hàng truyền thống của công ty như: Bưu điện, Đài truyền hình... và với các chính quyền địa phương để có biện pháp kiên quyết hơn trong việc đôn đốc các đơn vị tham gia bảo hiểm .
    Một yếu tố nữa tưởng là đơn giản nhưng mang một yếu tố quyết định đến thành công của khâu khai thác là :cán bộ nhân viên đi khai thác không những phải thông thạo về nghiệp vụ mà còn phải có dáng vẻ bề ngoài cân đối, ưa nhìn, nói năng hoạt bát nhanh nhẹn tạo cho khách hàng có cảm tình và cảm giác thoải mái.
    *Nên chăng công ty PTI có những tài trợ cho các sự kiện văn hoá thể thaovà đóng góp xã hội .
         Những hoạt động này nhằm mục đích không chỉ tạo sự nhân thức về công ty mà còn làm tăng thêm mối thiện cảm của công chúng đối với các sản phẩm của công ty. Thông qua các hoạt động tài trợ, công ty PTI tạo ra mối quan hệ tương hỗ cho môi trường kinh doanh được thuận tiện hơn .
        Hoạt động tài trợ của công ty nên nhằm vào những chương trình lớn gây tiếng vang tốt, các hoạt động văn hoá thanh niên được quan tâm nhiều hơn vì đây là thế hệ tương lai có nhận thức nhanh chóng . Đồng thời cũng nên tài trợ cho các hoạt động ca nhạc và văn hoá, các sự kiện thể thao và các hoạt động xã hội khác như quĩ học bổng cho học sinh, sinh viên tại cac trường đại học, đóng góp các hoạt động gây quĩ hỗ trợ tài năng trẻ .
    *    Hoạt động tài trợ nếu được thực hiện tốt thì chắc chắn nó sẽ là một phần làm cho tên tuổi của công ty PTI được nhiều người biết đến . Đó là phần thưởng từ phía công chúng dành cho công ty PTI mà không phải công ty nào cũng có được.
    1.2. Mở rộng đối tượng tham gia
           Công ty PTI nên có chính sách để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử vì hiện nay số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm hầu hết là nằm trong cổ đông, mà chủ yếu là thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam . Chúng ta có thể đồng ý là do mới thành lập nên việc xâm nhập thị trường là điều rất khó khăn, hơn nữa bước đầu chúng ta cần khai thác hết đối tượng tham gia trong cổ đông cũng là một cố gắng lớn rồi. Thực tế là theo như số liệu về đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử của công ty PTI thì tất cả đều thuộc phạm vi trong cổ đông. Đây là điều dễ hiểu, bởi công ty PTI khi chào hàng các sản phẩm của mình thì ban đầu do công chúng còn chưa hiểu hết tường tận về công ty, nên đối tượng tham gia đa số chỉ thuộc các lĩnh vực mà nằm trong cổ đông như: bảo hiểm thiết bị điện tử thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam, bảo hiểm xây dựng lắp đặt thuộc VINACONEX và công ty xây dựng Hà Nội.
          Tuy nhiên về lâu dài để đạt được mục tiêu lợi nhuận cao và doanh thu lớn thì công ty PTI cần có một chiến lược mở rộng phạm vi kinh doanh của mình. Thật vậy, khi đã có kinh nghiệm và mối quan hệ rộng rãi với khách hàng thì công ty PTI một mặt phải giữ được lượng khách hàng truyền thống đồng thời phải mạnh dạn tấn công vào thị trường tiềm năng nằm ngoài cổ đông của công ty. Muốn làm được điều này thì trước hết công ty PTI phải đủ mạnh về tài chính, uy tín với khách hàng và có đội ngũ nhân viên giỏi, sự phục vụ nhiệt tình, chu đáo khi đó chắc chắn là việc giành được khách hàng từ đối thủ cạnh tranh sẽ không còn khó khăn như hiện nay nữa. Kết quả là thị phần của công ty trên thị trường sẽ được tăng lên và do đó vị thế của công ty ngày càng lớn mạnh đủ tiềm lực để tồn tại và phát triển trong một môi trường mở và cạnh tranh quyết liệt của thị trường bảo hiểm Việt nam.
    1.3. Khai thác theo phương thức "vết dầu loang"
    Trong khâu khai thác, đối với các tổ chức, cơ quan, công ty... thì nên khai thác theo "vết dầu loang". Điều này có nghĩa là khi quan hệ với các tổ chức, cơ quan, công ty... nhân viên khai thác nên tiếp xúc trực tiếp bằng mọi cách khơi dậy nhu cầu mua bảo hiểm ngay từ lãnh đạo tổ chức đó. Và kết quả là khi lãnh đạo đã quyết định mua thì hầu như các tổ chức, cơ quan cấp dưới cũng sẽ mua theo. Công ty PTI cần chú ý đến việc nhắc nhở các nhân viên đi khai thác để không bao giờ được làm phật ý các cán bộ lãnh đạo của các tổ chức cơ quan đó bởi vì khi xảy ra điều này cũng có nghĩa là ta đã bị mất một khách hàng và khó có thể khơi dậy họ tiếp tục tham gia trong tương lai.
    1.4. Áp dụng hình thức khuyến mãi:
    Nên chăng công ty có thể thêm các hình thức khuyến mãi thích hợp đối với các tổ chức, cơ quan có giá trị bảo hiểm lớn đồng thời công ty nên có khoản hoa hồng hợp lí hấp dẫn cho khách hàng,người giới thiệu môi giới dịch vụ để giành khách hàng và giữ mối quan hệ lâu dài .Với các hình thức như vậy có thể khuyến khích người tham gia nhiều hơn tạo cho công ty có được nhiều khách hàng hơn với số tiền bảo hiểm lớn hơn .
    1.5. Quản lí hợp đồng    
    Với số lượng hợp đồng ngày một nhiều nhưng ngược lại số lượng cán bộ quản lí hợp đồng như hiện nay chưa tăng thêm nên có những vất vả đối với số cán bộ này. Do đó việc quản lí nhiều lúc chưa khoa học, còn lộn xộn gây ra trở ngại khi truy tìm hợp đồng cần thiết .
    Các đối tượng tham gia ở các tỉnh xa chưa kịp thời gửi hồ sơ về công ty để đưa vào lưu trữ nhằm tránh tình trạng thất lạc mất mát .Thực tế đã có trường hợp công ty gửi công văn giấy tờ đến các đối tượng tham gia bảo hiểm ở các tỉnh xa thì bị thất lạc do đó gây khó khăn cho cả hai bên trong việc truy cập tài liệu khi cần thiết .
    * Để công tác quản lí hợp đồng được hoàn thiện hơn, đảm đương đúng ý nghĩa của việc quản lí đó thì nhất thiết công ty phải quán triệt được vấn đề này.
              Có thể nói rằng trong khâu khai thác có nhiều vấn đề cần phải giải quyết và giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau, điều cơ bản là chúng ta phải biết lựa chọn biện pháp nào thích hợp nhất, phù hợp với tình hình thực tế của công ty đang trong thời kỳ khởi dựng, tránh tình trạng áp dụng nhiều biện pháp phi thực tế đưa đến cho công ty những sai lầm nghiêm trọng mà khó có thể khắc phục được . Trên đây là một số biện pháp trong khâu khai thác với hy vọng có thể đưa đến một tình huống tốt hơn cho công ty nhằm gây uy tín, chiếm lĩnh phần thị trường .

    2-Công tác giám định và bồi thường

    2.1.Khâu giám định :
    *Thời gian hoạt động của công ty cũng như ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử chưa lâu, các tổn thất xảy ra rất ít do đó công việc giám định chưa thực sự trở thành kinh nghiệm, chưa có một phòng riêng biệt để quản lí vấn đề này. Song trong quá trình hoạt động lâu dài, số hợp đồng bảo hiểm thiết bị điện tử tăng lên mà nhất là trong các mùa mưa bão sắp tới thì các rủi ro xảy ra chắc chắn ngày càng nhiều lên và lúc này nảy sinh những tiêu cực từ phía người tham gia nhằm trút hết mọi rủi ro sang cho bảo hiểm thiết bị điện tử. Nếu như công ty không có đội ngũ cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm nhằm tìm ra sự thật thì công ty không thể tránh khỏi những khoản chi trả, bồi thường phi lí. Bởi thế khi xét về khía cạnh này công ty nên xây dựng một đội ngũ giám định liêm khiết, làm việc đầy năng lực có thể phát hiện ra được mọi âm mưu, thủ đoạn của người tham gia để tìm ra sự thật, đem lại quyền lợi cho người tham gia và đảm bảo tình hình kinh doanh cho công ty .
    Trước mỗi đơn bảo hiểm thiết bị điện tử có giá trị lớn công ty cần phải cử cán bộ đi tới đó để làm công tác đánh giá rủi ro từ đó mới biết được các nguy cơ, sự an toàn và trách nhiệm với môi trường và sự đảm bảo. Điều này không những giúp công ty PTI nhận bảo hiểm an toàn, hiệu quả mà thông qua bản báo cáo giám định do các nhân viên điều tra rủi ro soạn thảo, họ có thể nắm vững các hiểm hoạ nội tại của dơn vị rủi ro cũng như những nguy cơ đạo đức có liên quan đến đơn vị rủi ro đó .
    2.2.Khâu bồi thường:
    Công ty phải luôn quan tâm tới khách hàng và thật chu đáo khi giải quyết bồi thường thì mới duy trì được uy tín lâu dài của mình. Làm tốt công tác bồi thường là một biện pháp tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu nhất trong hoạt động kinh doanh của công ty. Để làm tốt công tác này yêu cầu phải nhanh chóng trả tiền bồi thường khi tổn thất xảy ra nhằm khắc phục rủi ro cho người tham gia bảo hiểm. Cuối cùng cần giảm bớt các thủ tục giấy tờ, hồ sơ để chống các hiện tượng gây khó khăn cho khách hàng.
    Nói đến vấn đề này thực ra đã tồn tại ở một số công ty do một số nhân viên đi bán bảo hiểm, khi thu phí bảo hiểm thì cực kỳ chu đáo, niềm nở song đến khi khách hàng vì một lí do nào đó về tài chính mà người ta không thể tham gia được nữa hoặc giải quyết bồi thường cho họ tỏ ra những thái độ không nhiệt tình, chu đáo khiến cho khách hàng có ấn tượng không tốt từ đó uy tín của công ty đối với họ hoàn toàn không còn nữa và sẽ kéo theo rất nhiều khách hàng trước đây rất muốn tham gia bảo hiểm ở công ty PTI thấy được điều đó cũng chán nản, điều này ảnh hưởng tới việc mở rộng đối tượng tham gia trong tương lai. Đặc biệt trong vấn đề này ta nên chú trọng hơn nữa về việc giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng tránh gây khó dễ cho người ta, mà phải làm sao cho việc giải quyết quyền lợi giống như khi ta thu phí khai thác phải chu đáo niềm nở mới có cơ hội tốt cho công ty trong tương lai.

    3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất

    Đề phòng và hạn chế tổn thất không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của công ty PTI. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và do đó giảm được số tiền chi trả bồi thường cho các đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, công ty PTI đã thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất ngay từ khi mới triển khai nghiệp vụ. Tuy nhiên do mới triển khai nên còn có nhiều vấn đề chưa làm được đầy đủ và triệt để. Vì vậy  theo kinh nghiệm của nước ngoài có một số biện pháp để đề phòng và hạn chế tổn thất tốt hơn là:
    *- Phải thông báo và hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm về các điều kiện an toàn như thiết bị chống sét, chống cháy và điều kiện môi trường xung quanh nơi đặt các thiết bị điện tử.
    - Khi có sự cố xảy ra cần có cách sơ cứu kịp thời sau mỗi loại tổn thất :
    * Đối với thiệt hại do cháy cần phải :
    - Giảm độ ẩm trong phòng xuống dưới 40%
    - Di chuyển phần ẩm ướt bên trông và mang chúng ra khỏi phòng
    * - Di chuyển thiết bị điện tử ra khỏi môi trường cháy tới một phòng chứa thích hợp.
    - Không được khởi động lại thiết bị .
    * - Không được bật bất cứ máy điều hoà hoặc quạt ở vùng vừa cháy .
    * Đối với thiệt hại do nước cần phải :
    - Ngay lập tức tắt thiết bị điện tử (nguồn cung cấp ,ắc qui)
    - Mang thiết bị tới vùng khô
    - Giảm độ ẩm xuống dưới 40% hoặc dùng máy hút ẩm .
    - Làm khô thiết bị với nhiệt độ tối đa là 500C
    -Không được khởi động lại thiết bị điện tử chờ đến khi có chuyên gia đã kiểm tra .
    * Đối với thiệt hại do bụi công nghiệp :
    - Ngay lập tức tắt thiết bị nhạy cảm về bụi
    - Tránh xa hoạt động thiết bị với bụi
    - Loại bỏ nguồn bụi
    - Thay đổi máy lọc không khí .
    Tóm lại, dù thực hiện việc đề phòng và hạn chế tổn thất theo phương pháp nào đi chăng nữa thì hàng năm công ty cần phải chi ra một khoản tiền thích hợp trong tổng số phí bảo hiểm thu được. Các biện pháp này sẽ hạn chế mức độ của tổn thất và giảm bớt thời gian ngừng việc .

    4-Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo

    Hiện nay trình độ của cán bộ cần được nâng cao bởi vì trước tình hình thị trường bảo hiểm Việt nam ngày càng phát triển việc bổ xung thêm cán bộ ,đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn là điều hết sức cần thiết như vậy mới hy vọng chống chọi đối với đối thủ cạnh tranh.
    *Hơn nữa đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử là một loại hình bảo hiểm kĩ thuật nên ngoài kiến thức chuyên môn về bảo hiểm, cán bộ nhân viên phụ trách nghiệp vụ này còn phải hiểu biết rõ về thiết bị điện tử nếu không muốn nói là chủ yếu am hiểu về các biện pháo sơ cứu sau khi hoả hoạn, lũ lụt... Nếu như cán bộ giỏi về nghiệp vụ thì chẳng những thực hiện một cách nhanh chóng, trôi chảy mà còn khi khách hàng thắc mắc, yêu cầu giải thích cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng dễ hiểu tạo niềm tin cho khách hàng. Mặt khác, có nghiệp vụ giỏi, có trình độ ngoại ngữ thông thạo thì công ty mới dễ dàng thâm nhập thị trường nhanh chóng, trực tiếp đỡ tốn kém, không phải thông qua con đường môi giới.
        Mặt khác, như đã trình bày ở phần trên công ty bảo hiểm Bưu Điện là một công ty mới triển khai hoạt động, do vậy để phù hợp với mục tiêu phát triển lâu dài và tạo thêm lợi thế cạnh tranh, công ty bảo hiểm Bưu Điện cần phải quan tâm đến vấn đề đào tạo và tuyển dụng đội ngũ nhân viên.
      Trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học  công nghệ làm thay đổi đặc trưng của lao động, mỗi một nhân viên, cán bộ cần phải được cập nhật thêm thông tin mới nhất để làm chủ được tình hình, luôn sáng suốt trong kinh doanh và nhìn nhận được mục tiêu của công ty ở hiện tại cũng như trong tương lai. Khi công ty nguồn nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, linh hoạt trong kinh doanh luôn tạo được niềm tin cho khách hàng thì nhất định yếu tố vô hình này sẽ làm nên được lợi thế cạnh tranh vững chắc cho công ty .
      Tuy nhiên, không phải cứ đưa ra nội dung của việc đào tạo, tuyển dụng mà công ty sẽ có được những cánh tay đắc lực cho mình, mà công ty bảo hiểm Bưu Điện cần phải xây dựng một chính sách tuyển dụng mới ngay từ đầu, thu hút những cán bộ trẻ đã được đào tạo ở các trường đại học có chất lượng tốt, mặt khác, phải khuyến khích học tập để giúp đỡ những cán bộ quản lí có năng lực thường xuyên được bổ xung thêm kiến thức lí luận kết hợp với thực tiễn thông qua các buổi hội thảo giữa công ty và các đối tác nước ngoài để học hỏi thêm được những kinh nghiệm kinh doanh của họ. Đồng thời các nhân viên trong công ty cũng cần phải cử đi học các khoá học ngắn hạn ở các trường đại học trong và ngoài nước. Đối với cán bộ giám định ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, đây là nghiệp vụ còn mới mẻ, bởi vậy công ty có thể tuyển dụng cán bộ kỹ thuật đã được đào tạo chuyên ngành hoặc là trước mắt để giảm bớt chi phí quản lí chúng ta có thể thuê giám định từ bên ngoài cho đỡ tốn kém. Nhưng về lâu dài để cho khách hàng tin tưởng vào sự vững mạnh của công ty và chất lượng sản phẩm được nâng cao công ty bảo hiểm Bưu Điện nên có một đội ngũ giám định trung thực và giỏi về chuyên môn.
    *           Đối với việc sắp xếp cán bộ, công ty bảo hiểm Bưu Điện cần chú ý tới đội ngũ trẻ có năng lực, mạnh dạn sắp xếp họ vào các vị trí quản lí. Về tuyển dụng nhân viên mới, công ty bảo hiểm Bưu Điện kiên quyết phải thông qua thi tuyển. Đồng thời, công ty PTI cũng chú ý tới việc thu hút nhân tài từ công ty bảo hiểm khác vì một lí do nào đó muốn chuyển về công ty bảo hiểm Bưu Điện.
    5. Công tác tài chính, kế toán, tin học và quản trị :
    Công ty PTI mới thành lập do đó có những khoản chi tiêu có phần chưa hợp lí do vậy công ty cần kịp thời điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế.Công ty tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá chi phí ,công tác kiểm toán nội bộ nâng cao hiệu quả kinh doanh, định kỳ hàng tuần kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn, hàng tháng kiểm tra kế hoạch thu phí của cán bộ khai thác. Bên cạnh đó thì cán bộ tin học đang thiếu người, thực tế là các cán bộ nhân viên trong công ty kiêm luôn cả chức năng về tin học trong công việc của mình, điều này tiết kiệm được chi phí tuy nhiên đôi lúc cũng rất cần những nhân viên có trình độ chuyên môn về tin học giỏi để giải quyết những việc phức tạp mà công việc trong công ty đòi hỏi. Trước ttình hình mới này thì công tác tài chính kế toán, tin học và quản trị cũng cần được hoàn thiện, đổi mới và nâng cấp hơn nữa thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Cụ thể là công  ty cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn các phòng ban, đại lý về việc thực hiện chi tiêu, các chế độ chi hoa hồng đối với các đại lý, lập kế hoạch và làm báo cáo quyết toán.
    Đồng thời công ty cũng nên tăng cường thêm cán bộ tin học có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu quản lý của công ty.
    6. Phí bảo hiểm
    Trong bảo hiểm, phí bảo hiểm luôn là vấn đề nhạy cảm đối với cơ chế thị trường, một tỉ lệ phí bảo hiểm thích hợp vừa bảo đảm quyền lợi cho công ty bảo hiểm vừa có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của khách hàng.
    Phí bảo hiểm do người được bảo hiểm đóng chính là sự đóng góp của người được bảo hiểm vào quỹ chung để chia xẻ rủi ro. Sự đóng góp này cần phải công bằng và phải phản ánh được mức độ nguy cơ rủi ro mà người được bảo hiểm mang đến cho quỹ chung. Nói cách khác, phí bảo hiểm phải đủ để:

    * Bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm
    Công ty PTI cần có nhiệm vụ ước tính mức độ bồi thường có thể phát sinh. Không thể đưa ra con số chính xác về số tiền sẽ thanh toán cho các khiếu nại nhưng nhờ những số liệu liên quan, công ty bảo hiểm PTI có thể đánh giá tương đối chính xác chi phí bồi thường.
    * Ước tính về khiếu nại chưa giải quyết
    Không phải là mọi khiếu nại đều được giải quyết trong năm thanh toán phí bảo hiểm. Vì vậy, phí bảo hiểm cũng cần tính đến những khiếu nại sẽ được giải quyết vào cuối năm do đó Công ty PTI cần lưu ý đến điều này khi tính phí.
    * Cung cấp một khoản dự phòng
    Công ty PTI cũng phải tính đến trường hợp ngẫu nhiên ngoài tầm kiểm soát và có liên quan đến trách nhiệm của công ty đối với việc đáp ứng các khiếu nại ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Để giải quyết vấn đề này, công ty PTI phải trích nộp những khoản dự phòng.
    * Bù đắp chi phí hoạt động kinh doanh
    Công ty PTI phải chi một số tiền nhất định cho các hoạt động kinh doanh, bao gồm:
    - Lương của nhân viên
    - Chi phí văn phòng dưới mọi hình thức
    - Chi phí quảng cáo
    - Chi hoa hồng
    Phí bảo hiểm thu được từ mỗi hợp đồng bảo hiểm phải đủ để đáp ứng cho các chi phí hoạt động này.
    * Đem lại lợi nhuận
    Công ty PTI cũng phải bảo đảm rằng phí bảo hiểm phải đem lại một khoản lợi nhuận hợp lý. Ngoài ra công ty còn phải chịu trách nhiệm giữa các cổ đông và phải tạo ra một khoản lợi nhuận hợp lý cho việc đầu tư của các cổ đông vào công ty.
    Tuy nhiên, để có được mức phí bảo hiểm đưa ra cho khách hàng, không chỉ đơn thuần là việc tính phí bảo hiểm chính xác bằng một công thức toán học, mà còn phải cân nhắc tới cả những yếu tố thương mại. Bao gồm:
    * Lạm phát:
    Công ty PTI cần nhận thức rõ ràng, giá trị của đồng tiền luôn thay đổi, phí bảo hiểm thu ngày hôm nay sẽ được sử dụng để bồi thường khiếu nại xảy ra trong tương lai. Điều này có nghĩa là chi phí giải quyết khiếu nại có thể tăng không phải do sự gia tăng khiếu naị mà đơn giản chỉ là do giá trị đồng tiền giảm xuống, do vậy công ty PTI cũng không thể bỏ qua yếu tố này khi tính phí bảo hiểm.
    * Lãi suất:
    Công ty PTI là người đầu tư quỹ. Những quỹ này cũng tạo ra thu nhập đầu tư đáng kể nuôi sống công ty. Sự thay đổi trong lãi suất cũng cần được chú ý khi tính phí bảo hiểm.
    * Cạnh tranh:
    Yếu tố thương mại cuối cùng là cạnh tranh. Không phải trên thị trường chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm, do đó cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Việc tính phí bảo hiểm quá cao có thể dẫn đến mất dịch vụ nhưng nếu tính phí bảo hiểm quá thấp sẽ dẫn đến thua lỗ.
    Nên chăng công ty cần tiết kiệm các chi phí trong cơ cấu chi. Đặc biệt là chi bồi thường, nếu công ty luôn có ý thức xây dựng tốt các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất cho khách hàng đồng thời khi tổn thất xảy ra cần có biện pháp sơ cứu kịp thời nhằm giảm bớt thiệt hại tối đa thì chắc chắn rằng tổng chi sẽ giảm xuống và do đó công ty đã thu hút thêm một lượng khách hàng đáng kể từ phía đối thủ cạnh tranh và khách hàng tiềm năng nhờ việc chào phí với một mức phí mềm hơn so với các công ty khác hoạt động trên lĩnh vực này.
    7. Hoàn chỉnh môi trường pháp lí trong lĩnh vực bảo hiểm
      Sắp tới chúng ta sẽ phải mở cửa cho các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh để phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hợp tác hoá. Việc phát triển một thị trường mở trong lĩnh vực bảo hiểm là rất cần thiết vì nó làm lợi cho người tiêu dùng và đạt được tính cạnh tranh trong cuộc ganh đua toàn cầu. 
    Thật vậy, một trong những điều lo ngại lớn nhất của thị trường trong nước là sự mở cửa biên giới cho các công ty nước ngoài. Thậm chí nếu các công ty đó phải chịu cùng một luật lệ pháp lí, các nhà bảo hiểm trong nước thường thấy đó là không công bằng khi sự bước vào của các công ty nước ngoài làm tổn hại những lợi ích của nhiều năm lao động cần cù, cần có để phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, sự cạnh tranh ngoài nước đến từ Nhật bản hay Mỹ hoặc các nước phát triển khác làm kinh hãi thị trường trong nước. Sự cạnh tranh đó thể hiện trên các mặt :
    -Về định phí : phí thực thu có xu hướng thấp .
    -Về sản phẩm : nhiều sản phẩm mới ra đời đáp ứng được nhu cầu mới nhất của người tiêu dùng .
    -Về sự phục vụ: càng ngày các công ty bảo hiểm càng nhấn mạnh và quan tâm đến sự phục vụ đối với khách hàng. Các công ty bảo hiểm trong tương lai để cạnh tranh được sẽ cực kỳ gần gũi với khách hàngvà sự phục vụ sẽ là hàng đầu.
    - Về độ an toàn: sức mạnh tài chính của một công ty bảo hiểm cùng với sự bảo hộ của tái bảo hiểm sẽ làm cho các công ty đủ khả năng cạnh tranh.
    *           Cạnh tranh là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, trong lĩnh vực bảo hiểm ngoài sự ra đời một số công ty bảo hiểm mới như: PVIC,  PJCO,  BAOMINH, BAOLONG... còn có gần 40 văn phòng đại diện thuộc nhiều nước khác nhau như: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật bản, Đức...
      Để đảm bảo công bằng trong cạnh tranh và cạnh tranh lành mạnh, cần phải có những văn bản pháp qui, nhưng hiện nay VIệt nam vẫn chưa ban hành luật về bảo hiểm .
    Vì vậy nhà nước sớm ban hành đạo luật về bảo hiểm sẽ làm nền tảng cho các quan hệ pháp lí trong lĩnh vực bảo hiểm để các công ty bảo hiểm trong nước đi vào hoạt động đúng hướng và tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển chung và còn là cơ sở pháp lí ổn định để các đối tác nước ngoài tích cực triển khai hoạt động ở Việt Nam.

    KẾT LUẬN

      Nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ. Bởi thế bước đầu hoạt động công ty không thể không tránh khổi những khó khăn về nhiều mặt .Trong quá trình triển khai với một khoảng thời gian quá ngắn chưa đủ cho các cán bộ hân viên của công ty có được bề dầy kinh nghiệp nhưng thành quả mà công ty đã đạt được trong ngần ấy thời gian đã chứng minh cho ta thấy lòng nhiệt tình và đầy sáng tạo của mỗi thành viên trong công ty ,sự cần thiết và chấp nhận của thị trường đối với nghiệp vụ này .
    Qua thời gian tìm hiểu thực tế về nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT cùng với những kiến thức đã học, đến nay em đã hoàn thành chuyên đề này .Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TÔ THIÊN HƯƠNG giáo viên bộ môn kinh tế bảo hiểm -trường đạI học kinh tế quốc dân và các thầy  cô giáo trong bộ môn đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này .
    Và lời cuối cùng em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú trong công ty PTI và các anh chị ở phòng bảo hiểm  Tài Sản -Kĩ thuật ,đặc biệt là anh Nguyễn Quang Phi -Trưởng phòng bảo hiểm Tài sản kĩ -thuật đã tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình thực tập, thu thập số liệu để hoàn thành chuyên đề này .
     
    Hà nội ,ngày 4 tháng 6 năm 1999







    Giấy yêu cầu bảo hiểm thiết bị điện tử có mẫu như sau :
    Bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu
     bảo hiểm thiết bị điện tử                                                                Số:
    Tên và địa chỉ của
    Người yêu cầu bảo hiểm

    Ngành nghề kinh doanh

    Địa điểm đặt các thiết bị
    được bảo hiểm
    Loại cấu trúc nhà


    _______________________________________________

    _______________________________________________

    _______________________________________________
        ƒ khung thép    ƒ gạnh     ƒ bê tông       ƒ gỗ
    2. Có thiết bị nào trước đây đã
    từng được một công ty bảo hiểm khác bảo hiểm không ?

    Đề nghị thời hạn bảo hiểm
    bắt đầu từ
    ƒ có     ƒ không     nếu có đề nghị kê khai rõ những hạng mục
                                    đó trong bản danh mục thiết bị được bảo
                                     hiểm và tên công ty bảo hiểm đó
    _________________________________________________
    Ngày                  Giờ:       Hiệu lực bảo hiểm sẽ kết thúc vào  
                                           đúng thời điểm này vào năm tiếp theo                                          
    3. Có phải các thiết bị bảo hiểm đều là thiết bị mới không?


    Có thể tìm được giá xuất xưởng của những thiết bị cũ nào
    ƒ có           ƒ không            nếu không đề nghị kê khai rõ hạng
                                                mục nào trong bản danh mục thiết  
                                                bị được bảo hiểm là cũ.
    _________________________________________________
    Kê khai rõ hạng mục đó trong bản danh mục thiết bị được bảo hiểm:
    4 Điều kiện hoạt động của thiết bị
     Thiết bị có được bảo dưỡng theo hướng dẫn của công ty chế tạo thiết bị không?                        ƒ   có                    ƒ   không
    5. Chất lượng nhân viên
    Nhân viên sử dụng thiết bị có được công ty chế tạo thiết bị đào tạo không?                               ƒ     có                 ƒ  không
    6. Có khả năng xảy ra lũ lụt không?
    ƒ có     ƒ  không    Nếu có, do     ƒ dòng nước    ƒ  nước mưa

    ƒ nước tràn từ hệ thống cống rãnh  ƒ nguyên nhân khác
    7. Có sử dụng nguyên vật liệu
    nguy hiểm ở vùng lân cận không
    ƒ có     ƒ  không    Nếu có, kê khai rõ   ƒaxit          ƒ giấy ảnh
    ƒ dung dịch kiềm     ƒ thuốc thử     ƒ thuốc rưả ảnh ƒ chất nổ
    ƒ chất đồng vị           ƒ các chất khác
     Chúng tôi cam kết rằng những lời kê khai trong Bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm này là đầy đủ và trung thực. Chúng tôi cũng đồng ý rằng, bản kê khai này là cơ sở, đồng thời là bộ phận không tách rời của đơn bảo hiểm được cấp liên quan đến rủi ro trên. Chúng tôi hiểu và thoả thuận rằng
    PTI chỉ chịu tránh nhiệm theo đúng những điều kiện và điều khoản của đơn bảo hiểm và chúng
    tôi -Người được bảo hiểm (NĐBH), dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không đưa ra bất kỳ khiếu nại nào khác không thuộc phạm vi của đơn bảo hiểm, PTI cam kết tuyệt đối giữ bí mật các thông tin mà NĐBH đã khai trong Bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm này.

    Khai tại .................................................ngày.............tháng..........năm 1998

    Người khai (ký tên, đóng dấu )


    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1.     Giáo trình Kinh tế bảo hiểm -Trường đại học Kinh tế Quốc dân (PGS-PTS Hồ Sĩ Sà)
    2.     Giáo trình thống kê bảo hiểm - Trường đại học kinh tế quốc dân-khoa thống kê  (PGS-PTS Bùi Huy Thảo )
    3.     Tạp chí bảo hiểm các năm 1997,1998,1999.
    4.     Tạp chí hướng dẫn nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT(công ty PTI).
    5.     Giới thiệu về bảo hiểm TBĐT(Munich Re).
    6.     Tạp chí PC-World 1998,1999.
    7.     Tạp chí Hội Tin học Việt nam.
    8.           Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành (Hiệp hội Bảo hiểm Hoàng gia Anh)

    MỤC LỤC


    Trang
    LỜI NÓI ĐẦU
    1
    PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TBĐT
    2
    A> Khái niệm chung về bảo hiểm TBĐT
    2
    1. Sự cần thiết của bảo hiểm TBĐT
    2
    a. Khái niệm về  TBĐT
    2
    b. Sự cần thiết của bảo hiểm TBĐT
    3
    c. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử
    5
    2. Lịch sử phát triển của bảo hiểm TBĐT
    6
    a. Khái quát về lịch sử bảo hiểm kỹ thuật
    6
    b. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm TBĐT
    7
    3.Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT
    9
    a.Điều kiện về kinh tế
    9
    b.Điều kiện về dân số
    10
    c.Điều kiện về pháp lí 
    11
    B.Nội dung chủ yếu của nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT
    12
    I-Đối tượng và phạm vị bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT
    12
    1.Đối tượng bảo hiểm
    12
    2.Phạm vi bảo hiểm
    13
    II-Rủi ro bảo hiểm và những điểm loại trừ
    14
    1.Rủi ro bảo hiểm
    14
    2. Những điểm loại trừ
    15
    III-Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
    18
    1.Số tiền bảo hiểm
    18
    a.Đối với thiệt hại vật chất
    19
    b.Đối với thiệt hại về lưu trữ  dữ liệu bên ngoài
    19
    c.Đối với chi phí gia tăng
    19
    2.Phương pháp tính phí và nguyên tắc tính phí
    20
    3.Điều chỉnh số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
    25
    4. Mức khấu trừ
    26
    5. Phí bảo hiểm tối thiểu cho mỗi đơn bảo hiểm
    27
    IV-Hợp đồng bảo hiểm TBĐT
    27
    1.Giấy yêu cầu bảo hiểm
    27
    2.Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm
    27
    V-Tái bảo hiểm trong bảo hiểm TBĐT
    32
    PHẦN II- THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TBĐT TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN(PTI)
    33
    I-Vài nét sơ lược về quá trình hình thànhvà phát triển công ty PTI
    33
    II-Kết quả kinh doanh của công ty PTI ở nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT
    34
    PHẦN III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY PTI
    54
    I/ Triển vọng về thị trường điện tử tin học và phương hướng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử của Công ty bảo hiểm bưu điện
    54
    II/ Kiến nghị
    60
    1. Về công tác khai thác
    60
    1.1. Vấn đề tuyên truyền quảng cáo
    60
    1.2. Mở rộng đối tượng tham gia
    61
    1.3. Khai thác theo phương thức "vết dầu loang"
    62
    1.4. áp dụng hình thức khuyến mãi
    63
    1.5. Quản lý hợp đồng
    63
    2. Công tác giám định và bồi thường
    63
    2.1. Khâu giám định
    63
    2.2. Khâu bồi thường
    64
    3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
    65
    4. Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo
    66
    5. Công tác tài chính kế toán, tin học và quản trị
    68
    6. Phí bảo hiểm
    68
    7. Hoàn chỉnh môi trường pháp lý trong lĩnh vực bảo hiểm
    71
    KẾT LUẬN
    73
    PHỤ LỤC
    74
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    81








    Bạn muốn xem thêm!